Tám trường hợp không được bảo hiểm bồi thường thiệt hại tai nạn giao thông

NDO -

Nghị định số 03/2021/NĐ-CP về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới có nhiều điểm mới. Một trong số đó là doanh nghiệp bảo hiểm không bồi thường thiệt hại đối với tài sản do lái xe điều khiển xe mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn, sử dụng ma túy và chất kích thích bị cấm theo quy định của pháp luật.

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Thủ tướng Chính phủ vừa ký ban hành Nghị định số 03/2021/NĐ-CP (sau đây gọi tắt là Nghị định 03/2021) về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới thay thế Nghị định số 103/2008/NĐ-CP (sau đây gọi tắt là Nghị định 103/2008), ngày 16-9-2008 của Chính phủ về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới và Nghị định số 214/2013/NĐ-CP, ngày 20-12-2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 103/2008/NĐ-CP, ngày 16-9-2008 của Chính phủ về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.

Nghị định 03/2021 sẽ có hiệu lực từ ngày 1-3-2021. Dưới đây là một số điểm mới đáng lưu ý trong Nghị định này.

Tám trường hợp không được bảo hiểm bồi thường thiệt hại

Điều 13 Nghị định 03/2021 đã bổ sung một quy định mới và quy định rõ hơn liên quan đến lái xe so với Nghị định 103/2008/NĐ-CP về Loại trừ bảo hiểm.

Theo đó, doanh nghiệp bảo hiểm không bồi thường thiệt hại đối với tài sản do lái xe điều khiển xe mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn, sử dụng ma túy và chất kích thích bị cấm theo quy định của pháp luật.

Liên quan đến giấy phép lái xe của người lái xe, Nghị định 03/2021 quy định doanh nghiệp bảo hiểm không bồi thường thiệt hại đối với: Người lái xe chưa đủ độ tuổi hoặc quá độ tuổi điều khiển xe cơ giới theo quy định pháp luật về giao thông đường bộ; người lái xe không có Giấy phép lái xe hoặc sử dụng Giấy phép lái xe không hợp lệ (có số phôi ghi ở mặt sau không trùng với số phôi được cấp mới nhất trong hệ thống thông tin quản lý Giấy phép lái xe) hoặc sử dụng Giấy phép lái xe không do cơ quan có thẩm quyền cấp, Giấy phép lái xe bị tẩy xóa hoặc sử dụng Giấy phép lái xe hết hạn sử dụng tại thời điểm xảy ra tai nạn hoặc sử dụng Giấy phép lái xe không phù hợp đối với xe cơ giới bắt buộc phải có Giấy phép lái xe. Trường hợp người lái xe bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe có thời hạn hoặc bị thu hồi Giấy phép lái xe thì được coi là không có Giấy phép lái xe.

Ngoài ra, Nghị định 03/2021 cũng quy định tương tự các trường hợp loại trừ bảo hiểm như Nghị định 103/2008, gồm:

Hành động cố ý gây thiệt hại của chủ xe cơ giới, người lái xe hoặc người bị thiệt hại;

Người lái xe gây tai nạn cố ý bỏ chạy không thực hiện trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Trường hợp người lái xe gây tai nạn cố ý bỏ chạy nhưng đã thực hiện trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới thì không thuộc trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm;

Thiệt hại gây ra hậu quả gián tiếp bao gồm: giảm giá trị thương mại, thiệt hại gắn liền với việc sử dụng và khai thác tài sản bị thiệt hại;

Thiệt hại đối với tài sản bị mất cắp hoặc bị cướp trong tai nạn;

Thiệt hại đối với tài sản đặc biệt bao gồm: vàng, bạc, đá quý, các loại giấy tờ có giá trị như tiền, đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm, thi hài, hài cốt;

Chiến tranh, khủng bố, động đất.

Thời hạn bảo hiểm kéo dài tối đa ba năm

Theo Nghị định 103/2008, thời hạn ghi trên Giấy chứng nhận bảo hiểm là một năm hoặc dưới một năm trong một số trường hợp. Tuy nhiên, theo khoản 1 Điều 9 Nghị định 03/2021 thì thời hạn ghi trên Giấy chứng nhận bảo hiểm như sau:

Đối với xe mô-tô hai bánh, ba bánh, xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe có kết cấu tương tự theo quy định của Luật Giao thông đường bộ, thời hạn bảo hiểm tối thiểu là một năm và tối đa là ba năm.

Đối với các xe cơ giới còn lại, thời hạn bảo hiểm tối thiểu là một năm và thời hạn tối đa tương ứng với thời hạn kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường định kỳ có thời hạn hơn một năm.

Trong các trường hợp sau, thời hạn bảo hiểm dưới một năm: Xe cơ giới nước ngoài tạm nhập, tái xuất có thời hạn tham gia giao thông trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới một năm; Niên hạn sử dụng của xe cơ giới nhỏ hơn một năm theo quy định của pháp luật; Xe cơ giới thuộc đối tượng đăng ký tạm thời theo quy định của Bộ Công an.

Trường hợp chủ xe cơ giới có nhiều xe tham gia bảo hiểm vào nhiều thời điểm khác nhau trong năm nhưng đến năm tiếp theo có nhu cầu đưa về cùng một thời điểm bảo hiểm để quản lý, thời hạn bảo hiểm của các xe này có thể nhỏ hơn một năm và bằng thời gian hiệu lực còn lại của hợp đồng bảo hiểm giao kết đầu tiên của năm đó.

Được cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm điện tử

Theo khoản 4 Điều 6 Nghị định 03/2021: Trường hợp cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm điện tử, doanh nghiệp bảo hiểm phải tuân thủ các quy định của Luật Giao dịch điện tử và các văn bản hướng dẫn thi hành; Giấy chứng nhận bảo hiểm điện tử phải tuân thủ đầy đủ các quy định hiện hành và phản ánh đầy đủ các nội dung quy định tại khoản 3 Điều này.

Theo đó, Giấy chứng nhận bảo hiểm điện tử cũng phải do doanh nghiệp chủ động thiết kế và bao gồm các nội dung: Tên, địa chỉ, số điện thoại (nếu có) của chủ xe cơ giới; Số biển kiểm soát hoặc số khung, số máy; Loại xe, trọng tải, số chỗ ngồi, mục đích sử dụng đối với xe ô-tô; Tên, địa chỉ, số điện thoại đường dây nóng của doanh nghiệp bảo hiểm; Mức trách nhiệm bảo hiểm dân sự đối với bên thứ ba và hành khách; Trách nhiệm của chủ xe cơ giới, người lái xe khi xảy ra tai nạn; Thời hạn bảo hiểm, phí bảo hiểm, thời hạn thanh toán phí bảo hiểm; Ngày, tháng, năm cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm; Mã số, mã vạch được đăng ký, quản lý và sử dụng theo quy định của Bộ Khoa học và Công nghệ để lưu trữ, chuyển tải và truy xuất thông tin định danh doanh nghiệp bảo hiểm và nội dung cơ bản của Giấy những nhận bảo hiểm.

Mức tăng phí bảo hiểm tối đa 15%

Khoản 3 Điều 7 Nghị định 03/2021 quy định: Căn cứ vào lịch sử tai nạn của từng xe cơ giới và năng lực chấp nhận rủi ro của mình, doanh nghiệp bảo hiểm chủ động xem xét, điều chỉnh tăng phí bảo hiểm. Mức tăng phí bảo hiểm tối đa là 15% tính trên phí bảo hiểm do Bộ Tài chính quy định.

Đây là một quy định mới về phí bảo hiểm, tại Nghị định 103/2008 không có quy định này.

Quy định rõ việc tạm ứng bồi thường và mức bồi thường

Về việc tạm ứng bồi thường bảo hiểm, khoản 2 Điều 14 Nghị định 03/2021 quy định: Trong vòng ba ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo của bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm về vụ tai nạn, doanh nghiệp bảo hiểm phải tạm ứng bồi thường đối với thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, cụ thể:

Trường hợp đã xác định được vụ tai nạn thuộc phạm vi bồi thường thiệt hại: 70% mức bồi thường bảo hiểm theo quy định/một người/một vụ đối với trường hợp tử vong; 50% mức bồi thường bảo hiểm theo quy định/một người/một vụ đối với trường hợp tổn thương bộ phận được điều trị cấp cứu.

Trường hợp chưa xác định được vụ tai nạn thuộc phạm vi bồi thường thiệt hại: 30% mức trách nhiệm bảo hiểm theo quy định trường hợp tử vong; 10% mức trách nhiệm bảo hiểm theo quy định/một người/một vụ đối với trường hợp tổn thương bộ phận được điều trị cấp cứu.

Trước đó, Nghị định 103/2008 chỉ quy định: Trường hợp cần thiết, doanh nghiệp bảo hiểm phải tạm ứng ngay những chi phí cần thiết và hợp lý trong phạm vi trách nhiệm bảo hiểm nhằm khắc phục hậu quả tai nạn.

Về mức bồi thường bảo hiểm, điểm a, khoản 3, Điều 14 Nghị định 03/2021 quy định: Mức bồi thường về sức khỏe, tính mạng được xác định theo từng loại thương tật, thiệt hại theo quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định này hoặc theo thỏa thuận (nếu có) giữa người được bảo hiểm và người bị thiệt hại nhưng không vượt quá mức bồi thường theo quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định này.

Trường hợp nhiều xe cơ giới gây tai nạn dẫn đến thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, mức bồi thường được xác định theo mức độ lỗi của người được bảo hiểm nhưng tổng mức bồi thường không vượt quá mức trách nhiệm bảo hiểm.

Đối với vụ tai nạn được cơ quan thẩm quyền xác định nguyên nhân do lỗi hoàn toàn của bên thứ ba thì mức bồi thường bảo hiểm về sức khỏe, tính mạng đối với các đối tượng thuộc bên thứ ba bằng 50% mức bồi thường quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định này hoặc theo thỏa thuận (nếu có) giữa người được bảo hiểm và người bị thiệt hại nhưng không vượt quá 50% mức bồi thường theo quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định này.