Bộ trưởng Tài chính:

Năm 2018 thu từ ba khu vực kinh tế không đạt dự toán

NDO -

NDĐT- Sáng 31-5, tại phiên thảo luận đánh giá bổ sung về tình hình kinh tế - xã hội năm 2018 và những tháng đầu năm 2019, Bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng đã giải trình về ba nội dung: công tác quản lý thu chống thất thu; thu từ ba khu vực kinh tế năm 2018; quá trình xây dựng Nghị định sử dụng tài sản công để thanh toán cho nhà đầu tư thực hiện dự án BT (xây dựng – chuyển giao).

Bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng.
Bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng.

Chống thất thu hiệu quả, tăng thu ngân sách

Theo Bộ trưởng Tài chính, năm qua công tác quản lý thu chống thất thu đạt hiệu quả tích cực, góp phần tăng thu ngân sách nhà nước và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Cụ thể, năm 2018, cơ quan thuế đã thực hiện hơn 90 cuộc thanh tra, kiểm tra thuế, kiến nghị xử lý thu vào ngân sách nhà nước gần 14 nghìn tỷ đồng, giảm lỗ 40.900 tỷ đồng. Cơ quan hải quan đã thực hiện gần 7.000 cuộc thanh tra, kiểm tra sau thông quan; phối hợp các lực lượng chức năng bắt giữ hơn 15 nghìn vụ buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả. Từ những kết quả đó, số nợ thuế năm 2018 giảm cả về số tuyệt đối và tỷ lệ so với tổng thu ngân sách nhà nước. Riêng số nợ thuế có khả năng thu giảm từ 45 nghìn tỷ đồng năm 2017 xuống 38.750 tỷ đồng năm 2018, tương ứng giảm 14 % và bằng 2,7% trong tổng thu ngân sách nhà nước.

Bên cạnh đó, Bộ trưởng Tài chính cho biết, tính đến cuối năm 2018, số thuế nợ không có khả năng thu hồi là 37.570 tỷ đồng, tăng 5.000 tỷ đồng và chiếm 49,2% tổng nợ. Đây là các khoản nợ thuế của các đối tượng đã chết, mất tích, doanh nghiệp giải thể nhưng không còn tài sản gì thu hồi nhưng chưa được xóa nợ, và vì vẫn tính tiền phạt chậm nộp với lãi suất 0,03%/ngày nên số tiền nợ tăng lên. Tuy nhiên, theo Nghị quyết của Quốc hội và chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài chính đang dự thảo Nghị quyết về xóa nợ tài chính đối với số nợ này và đã báo cáo bước đầu với Ủy ban Thường vụ Quốc hội, dự kiến sẽ trình Quốc hội trong kỳ họp tháng 10 tới đây.

Xây dựng dự toán ngân sách năm 2019 phù hợp hơn

Đối với việc thu từ ba khu vực kinh tế không đạt dự toán, Bộ trưởng Tài chính cho biết có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan.

Về nguyên nhân khách quan, mặc dù kinh tế khởi sắc, song hoạt động kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp vẫn còn khó khăn. Năm 2018 có 131.300 doanh nghiệp thành lập mới nhưng cũng có tới 107 nghìn doanh nghiệp dừng hoạt động và giải thể (bằng 81,4% số doanh nghiệp thành lập mới). Đồng thời, các doanh nghiệp thành lập mới chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, siêu nhỏ được hưởng ưu đãi thuế, do đó đóng góp số thu vào ngân sách nhà nước là không nhiều. Trong đó số doanh nghiệp hoạt động có lãi chiếm 40% tổng số doanh nghiệp đã nộp tờ khai thuế. Số doanh nghiệp phát sinh thuế giá trị gia tăng dương (tức là đầu ra lớn hơn đầu vào), chỉ chiếm 26% tổng số doanh nghiệp kê khai. Một số doanh nghiệp có số thu lớn thì trong năm 2018 tăng trưởng thấp hơn dự kiến, thậm chí giảm so với năm trước (2017), như nhóm doanh nghiệp khai khoáng, khai thác dầu thô, sản xuất điện thoại di động.

Theo Bộ trưởng Tài chính, về nguyên nhân chủ quan là do dự toán thu cao hơn thực tế so với thực hiện năm 2017. Trong đó, dự toán thu của khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 13,1%, thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 30,1% và thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh dự toán giao tăng 20,4%; trong khi đó tăng trưởng kinh tế và lạm phát cộng lại chỉ là 11%. Rút kinh nghiệm từ năm 2018, Bộ trưởng Tài chính cho biết sẽ xây dựng dự toán ngân sách nhà nước năm 2019 ở mức phù hợp hơn để trình Quốc hội. Cụ thể, dự toán thu năm 2019 tăng 7,7% so với năm 2018, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước thì bằng mức thực hiện năm 2018, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 13,4%, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tăng 13,3%.

Theo Bộ trưởng Tài chính, thực tế 5 tháng đầu năm 2019, tổng thu ngân sách nhà nước đạt 44,5% dự toán và tăng 13% so với cùng kỳ. Tiến độ thu của ba khu vực này đạt 41,1% dự toán, xấp xỉ tiến độ bình quân của các khoản thu nội địa (thu nội địa là 42,3%, tăng 12,9% so với cùng kỳ).

Đặc biệt, trong năm tháng đầu năm 2019 có 52/63 địa phương thu đạt dự toán, 57/63 địa phương thu cao hơn cùng kỳ năm 2018.

Năm 2018 thu từ ba khu vực kinh tế không đạt dự toán ảnh 1

Toàn cảnh phiên làm việc của Quốc hội sáng 31-5.

Nhiều vướng mắc trong sử dụng tài sản công để thanh toán cho nhà đầu tư BT

Theo Bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng, việc ban hành Nghị định sử dụng tài sản công để thanh toán cho nhà đầu tư thực hiện dự án BT (Nghị định) đặt ra yêu cầu phải xử lý hài hòa lợi ích của nhà nước, nhà đầu tư và khắc phục được những tồn tại, hạn chế, tiêu cực trong thời gian vừa qua. Do đó, Chính phủ đã xem xét rất kỹ lưỡng, cân nhắc thận trọng nhiều mặt để vừa bảo đảm mục tiêu chặt chẽ, đúng pháp luật, vừa bảo đảm không hồi tố, đồng thời phải xử lý, giải quyết hài hòa lợi ích. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng Nghị định (đã được thực hiện từ trước khi Quốc hội ban hành Luật Quản lý, sử dụng tài sản công) có một số khó khăn, vướng mắc.

Thứ nhất, phải bảo đảm nguyên tắc về ngang giá khi sử dụng tài sản công để thanh toán cho nhà đầu tư thực hiện dự án BT. Nguyên tắc ngang giá đã được quy định tại Luật Quản lý, sử dụng tài sản công (Luật). Nhưng trên thực tế, một số hợp đồng BT đã ký trước ngày Luật có hiệu lực thi hành, không bảo đảm nguyên tắc ngang giá. Diện tích đất chấp thuận thanh toán cho nhà đầu tư có giá trị lớn hơn rất nhiều so với giá trị dự án BT, đây là khó khăn rất lớn, đòi hỏi xử lý phù hợp để quy định vào nghị định.

Thứ hai, việc đấu thầu đồng thời dự án BT và đấu giá quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Theo quy định của Luật Đầu tư, giá trị dự án BT và việc lựa chọn nhà đầu tư phải thực hiện theo Luật Đấu thầu. Theo pháp luật về đất đai thì việc giao đất cho nhà đầu tư để thực hiện dự án kinh doanh bất động sản và thực hiện đấu giá. Tuy nhiên, đối với quỹ đất thanh toán hợp đồng BT cho nhà đầu tư, nếu thực hiện đấu giá là không khả thi vì khi đấu thầu dự án BT, Nhà nước đóng vai trò là bên mua, nhà đầu tư đóng vai trò là bên bán; còn đấu giá tài sản công thì Nhà nước đóng vai trò là bên bán, nhà đầu tư đóng vai trò là bên mua. Pháp luật hiện hành không có quy định đồng thời vừa đấu thầu vừa đấu giá bán đối với cùng một dự án.

Thứ ba, về giá đất để xác định giá trị quỹ đất thanh toán cho nhà đầu tư theo quy định của pháp luật, xác định theo giá thị trường. Thực tế cho thấy, việc xác định giá đất cụ thể trong thời gian vừa qua chưa đạt được mục tiêu của nguyên tắc này. Đa số thấp hơn thị trường trong điều kiện giá đất có đặc điểm riêng là xu hướng tăng sau quá trình thực hiện đầu tư hạ tầng. Điều này có rất nhiều nguyên nhân, cả trong tổ chức thực hiện và xác định giá đất.

Thứ tư, về thanh toán cho nhà đầu tư bằng tiền đấu giá quyền sử dụng đất. Theo quy định của pháp luật về đấu giá, việc đấu giá chỉ thực hiện được với đất sạch, tức là đất đã giải phóng mặt bằng, trong trường hợp này là sử dụng ngân sách nhà nước để đầu tư công, không phải hình thức đầu tư BT. Thực tế đối với hình thức đầu tư BT, các địa phương đã chấp thuận sử dụng đất chưa bồi thường giải phóng mặt bằng đã có quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai để thanh toán cho nhà đầu tư, quỹ đất chưa bồi thường giải phóng mặt bằng thì chưa đủ điền kiện đưa ra đấu giá.

Đến nay, sau nhiều lần báo cáo, tiếp thu, giải trình, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã hoàn thiện dự thảo Nghị định BT và đã có văn bản Báo cáo số 6007 ngày 27-5-2019 trình Thủ tướng Chính phủ xem xét ban hành Nghị định này.