Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Nhân kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và chào mừng ngày bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản Việt Nam có bài viết quan trọng "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam".

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Xuất phát từ góc nhìn thực tiễn của Việt Nam, bài viết của Tổng Bí thư đặt ra nhiều vấn đề vừa trước mắt vừa cơ bản, lâu dài. Một trong những vấn đề lý luận và thực tiễn cốt tủy của bài viết là tác giả chỉ rõ dưới ánh sáng của chủ nghĩa xã hội khoa học do Mác, Ăng-ghen, Lê-nin sáng lập, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội và định hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nêu lên những gam màu chủ đạo như là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư khẳng định "chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ðảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi". Một luận điểm căn cốt trong bài viết của người đứng đầu Ðảng ta là: "Ðộc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh".

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nhằm cung cấp thêm những luận cứ khoa học để củng cố niềm tin vững chắc cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện khát vọng phát triển một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, hùng cường, cùng nhịp bước với thời đại, sánh vai với các cường quốc năm châu, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và ước vọng của toàn dân tộc ta.

Như chúng ta đều biết, các phong trào giải phóng dân tộc theo con đường phong kiến và con đường tư sản cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đều không giành được thắng lợi. Hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử. Các phong trào đó thiếu một giai cấp tiên tiến đủ sức lãnh đạo cách mạng, dẫn tới sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước.

Trong khi các con đường cứu nước chưa tìm được lối ra, với lòng nồng nàn yêu nước thương dân, khát vọng giải phóng dân tộc, Nguyễn Tất Thành tự chọn con đường đi của mình. Thông qua tìm hiểu các con đường cứu nước khác nhau, khảo sát, hoạt động thực tiễn và nghiên cứu lý luận, đến tận các nước tư bản phát triển, sống trong phong trào công nhân và các dân tộc bị áp bức, nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản điển hình trên thế giới, cuối cùng sau mười năm tìm đường, Nguyễn Ái Quốc đã chọn giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, tức độc lập dân tộc đi tới chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định chỉ chủ nghĩa Mác - Lê-nin là chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất. Nhớ lại con đường từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lê-nin, Người nói "Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lê-nin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ".

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, những cuộc cách mạng tư bản, tuy thành công nhưng không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, nhưng kỳ thực thì nó vẫn đi tước đoạt công nông, áp bức thuộc địa, nhân dân vẫn cực khổ, lo tính cách mạng lần nữa. Từ thực tiễn sống động đó, Nguyễn Ái Quốc rút ra kết luận "Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc".

Cần phải nhắc lại rằng 72 năm từ lúc thực dân Pháp xâm lược đến khi Ðảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thời gian đủ để khảo nghiệm các con đường cứu nước. Trong các con đường đó có cả con đường tư sản với những gương mặt tiêu biểu như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh. Nhưng như chính Phan Bội Châu đã tự nói về mình, "rằng đời tôi trăm thất bại mà không một thành công, là bởi tôi có lòng mà thật bất tài". Cái "bất tài" mà cụ Phan nói đến là cụ chưa nhận ra con đường tư sản không phù hợp với xu thế của lịch sử lúc bấy giờ, không hợp quy luật khách quan trong thời đại mới được mở ra từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười. Phan Bội Châu nói đại ý rằng, hiện nay đã có người khác giỏi hơn chúng tôi nhiều đứng ra đảm đương công việc để làm trọn cái việc mà lớp chúng tôi không làm xong. Ðó chính là Nguyễn Ái Quốc. Nếu Nam Ðàn có Thánh thì chính là ông Nguyễn Ái Quốc chứ không phải là ai khác. Phan Châu Trinh cũng đặt kỳ vọng khi khẳng định Nguyễn Ái Quốc như cây đương lộc, nghị lực có thừa, dày công học hỏi, lý thuyết tinh thông. Nhắc lại sự kiện đó để chúng ta có cơ sở chắc chắn bác bỏ ý kiến cho rằng chúng ta đã chọn con đường đi sai.

Năm 1930, trong các văn kiện thành lập Ðảng, Hồ Chí Minh khẳng định "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Ðó chính là độc lập dân tộc đi tới chủ nghĩa xã hội. Một trong những vấn đề lý luận cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh là giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Theo Người, với xã hội Việt Nam thuộc địa, giành độc lập dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, là điều kiện tiên quyết để phát triển đất nước. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì, tức là độc lập dân tộc phải đi tới chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là thước đo giá trị của độc lập dân tộc.

Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam từ khi có Ðảng. Nhờ sức mạnh của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đã giành được thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, giải phóng miền nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một đột phá lý luận rất cơ bản, thể hiện bản lĩnh, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ðảng ta.

Cống hiến đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ ở chỗ khẳng định tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chủ nghĩa nhân văn và văn hóa, phát triển, tiến bộ không ai ngăn cản được, mà còn sớm trả lời câu hỏi "chủ nghĩa xã hội là gì?", đi đến khẳng định đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Theo Người, chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh; làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng; là nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; là làm cho mọi người được ăn no, mặc ấm, được sung sướng, tự do; là gắn với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và văn hóa. Chủ nghĩa xã hội là một chế độ không có người bóc lột người, một xã hội bình đẳng, ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng, trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con. Chủ nghĩa xã hội là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, địa vị cao nhất là dân;...

Chủ nghĩa xã hội trong kho tàng tư tưởng Hồ Chí Minh là một xã hội do nhân dân làm chủ và là chủ, quyền lực thuộc về nhân dân; một xã hội vì con người, do con người; con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của chủ nghĩa xã hội. Ðảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, bảo đảm tự do, hạnh phúc của nhân dân. Chủ nghĩa xã hội như vậy bao gồm phát triển kinh tế, văn hóa, đạo đức, xã hội và môi trường, cho hôm nay và mai sau. Với tầm nhìn khởi xướng sự nghiệp xóa đói, giảm nghèo, tăng giàu, phát triển kinh tế đi liền với tiến bộ và công bằng xã hội, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, chữa bệnh, Hồ Chí Minh đặt nền móng cho phát triển bền vững khi Người chú trọng ba trụ cột: kinh tế, xã hội và môi trường với những quan điểm về xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực, quan tâm giáo dục tiểu học, thực hiện bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho phụ nữ, giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em, phòng, chống bệnh tật, chăm lo sức khỏe cho bà mẹ và nhân dân, hợp tác kinh tế quốc tế, thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì phát triển. Di sản Hồ Chí Minh đặt nền móng và là chỉ dẫn để Ðảng ta đề ra cương lĩnh, đường lối xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh.

Hồ Chí Minh là một nhà lý luận - thực tiễn. Dưới ánh sáng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng và hành động của Người luôn xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, nhận thức đúng và hành động theo quy luật khách quan. Người đưa ra hệ giải pháp khoa học để thực hiện có hiệu quả mục đích của chủ nghĩa xã hội. Nhận thức đúng đắn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam do điểm xuất phát thấp của một nước nông nghiệp lạc hậu, khoa học - kỹ thuật kém phát triển, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Hồ Chí Minh chỉ rõ chúng ta không được chủ quan, nóng vội, duy ý chí; không giáo điều, bảo thủ; không rập khuôn, máy móc. Phải làm dần dần từng bước, vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Tự lực cánh sinh kết hợp với học hỏi sáng tạo kinh nghiệm các nước, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước bạn. Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của cả hệ thống chính trị, của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Ðảng. Xây dựng và phát huy nhân tố con người có hàm lượng cao về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, bản lĩnh, tư duy đổi mới, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm. Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học - kỹ thuật, xây dựng nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng, nhân văn, hướng đến các giá trị chân - thiện - mỹ. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân. Chủ nghĩa xã hội phải gắn kết chặt chẽ giữa xây cái đúng, cái tốt, cái đẹp với chống cái sai, cái ác, cái xấu, đặc biệt phải xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu và những hư hỏng, bệnh tật khác.

Hồ Chí Minh là nhà tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn sâu sát, khoa học. Nhờ tư tưởng, đạo đức, phong cách và phương pháp của Người trong chỉ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội mà chỉ trong khoảng mười năm (1954 - 1964), miền bắc đã tiến những bước dài chưa từng có. Ðất nước, xã hội và con người đều đổi mới. Thành quả của chủ nghĩa xã hội không chỉ là mong ước tốt đẹp của dân tộc ta, mà đó còn là giá trị đích thực của chế độ xã hội chủ nghĩa, tạo nên sức mạnh và nguồn cảm hứng to lớn đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, để lại dấu ấn tốt đẹp trong lòng bè bạn quốc tế.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được hình thành, từng bước phát triển từ thập kỷ 20 của thế kỷ 20, nhưng vẫn vẹn nguyên giá trị, mở đường đổi mới, soi sáng tương lai, trường tồn cùng dân tộc và nhân loại. Qua 35 năm đổi mới, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đất nước đã tiến những bước dài chưa từng có, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Ðại hội XIII của Ðảng khẳng định: "Ðất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay".

Với tư cách là một nhà biện chứng, có tầm dự báo chiến lược thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy trước nhiệm vụ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn là rất to lớn, nặng nề, khó khăn, phức tạp. Người coi đó là một cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Theo Người, muốn giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ đó, phải tập trung trước tiên là chỉnh đốn lại Ðảng với tư cách là Ðảng cầm quyền; giữ gìn sự đoàn kết trong Ðảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình; thực hành dân chủ rộng rãi; thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình; cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Ðảng ta thật trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Phải chăm lo công việc đối với con người, chú trọng bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau vừa hồng vừa chuyên. Cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.

Ðó cũng chính là những khía cạnh căn cốt mà Ðại hội XIII của Ðảng đề cập, được Tổng Bí thư nhấn mạnh trong phần cuối của bài viết theo tinh thần "Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững đã và đang được những nhà cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học".