Chuyện đời - Chuyện nghề

Có một nhà văn Trung Sỹ

Trung sĩ là cấp bậc khi rời quân đội, sau những năm tháng chiến đấu ở chiến trường K (Campuchia) của chàng thanh niên Hà Nội, Xuân Tùng. Và như một định mệnh, cuốn sách đầu tay ở loại thể hồi ức "Chuyện lính Tây Nam" của anh đã định vị một bút hiệu nhà văn - Trung Sỹ.

 Chân dung nhà văn Trung Sỹ của họa sĩ Ðỗ Hoàng Tường.
Chân dung nhà văn Trung Sỹ của họa sĩ Ðỗ Hoàng Tường.

Một bút danh kỳ lạ và đậm chất lính đã trở nên thân quen với giới sáng tác và độc giả, chỉ bằng tác phẩm đầu tay này. Tôi đọc "Chuyện lính Tây Nam" sau khi tác giả cho ra mắt ít lâu và nó cuốn hút tôi ngay từ những dòng đầu tiên. Một người lính tham gia chiến trường K, sau mấy chục năm, có lẽ vì những ám ảnh trận mạc quá lớn đã đặt bút viết lại những gì xảy ra ở cuộc chiến tranh ấy về bản thân mình và đồng đội mình. Những dòng hồi ức không mầu mè, trần trụi với đủ đầy các góc cạnh sự thật tạo ra những xúc cảm cộng hưởng cực mạnh. Vốn là một người lính tham gia chiến tranh trước 1975, tôi cảm nhận rõ rệt từng hơi thở cuộc chiến của Trung Sỹ và đồng đội. Vẫn là sự ác liệt chết chóc nhưng không chỉ có thế, đó còn là những dòng suy nghĩ thật "người" bình dị với sự sống, cái chết. Là những cảnh huống chiến trận, những đói khát gian khổ, những cảnh sinh hoạt lính tráng và cả những cung bậc trạng thái tình cảm của người lính trong rất nhiều tình huống của chiến tranh.

Trung Sỹ là trai Hà Nội. Tuy lần đầu viết sách và không hề có bất cứ ý niệm văn chương nào nhưng nền tảng kiến thức của một học sinh Hà Nội ham đọc, có hiểu biết về thời cuộc và được sinh trưởng trong một gia đình truyền thống là tư sản phố thị nên tác giả nhập cuộc có vẻ thật dễ dàng. Khó bắt gặp một trang viết gượng ép nào mà hoàn toàn là những bung phá của ngôn ngữ, của sự thật chiến tranh của cảm xúc người viết. Thật khó gọi anh là người viết mới, bởi những trang văn của Trung Sỹ mang dấu ấn của chữ nghĩa chuyên nghiệp, giầu hình ảnh và cách kể tài hoa, với những ngắt đoạn cực kỳ hấp dẫn và những chốt kết đậm tính triết luận về thế cuộc, về đời sống trong hình hài nhân sinh giản dị như chính cuộc sống. "Chuyện lính Tây Nam" hoàn toàn chinh phục được một người đọc khó tính và có kinh nghiệm, là tôi.

Cũng cần nói thêm, trước thời điểm "Chuyện lính Tây Nam ra đời" đã xuất hiện một loạt tác phẩm văn học phi hư cấu là những cuốn sách của các tác giả từng là lính kể chuyện chiến trận của mình. Tôi đặc biệt ấn tượng với "Hồi ức lính" của Vũ Công Chiến, một người lính chiến đấu ở chiến trường C (Lào) và "Quảng Trị 1972" của Nguyễn Quang Vinh viết về mặt trận Thành Cổ. Cả ba tác giả trên đều là những lính chiến thực thụ, viết về chính cuộc chiến đấu của mình, không tô vẽ, hư cấu và có lẽ mục đích của họ không nhằm hướng tới văn chương mà chỉ là giải tỏa những bức xúc, ám ảnh về một thời đã trôi qua chưa xa, dù đã có một khoảng cách lớn của thời gian.

Vốn là người trọng tài, với những tác giả như Trung Sỹ, tôi luôn có nhu cầu tìm gặp chuyện trò trao đổi. Nhưng có vẻ lần này tôi đã không gặp may. Thời gian nhãng đi khá lâu, khi cái ý định kia trong tôi dần mai một thì một lần xem đá bóng ở nhà người bạn mạn Bờ Hồ, tôi tình cờ gặp anh. Nói thật, dân văn chương gặp nhau tương đối khó hòa nhập bởi cá tính khác biệt, nhưng nếu đều đã từng là lính thì mọi khoảng cách xóa nhòa rất nhanh. Hai cuộc chiến tranh nhưng hai thế hệ lính không có nhiều khác biệt, nhất là những ký ức về Hà Nội.

Sau vài ba lần hẹn hò, gặp gỡ, chúng tôi có thể tự tin để trao gửi tâm tình bè bạn. Tất nhiên đó còn là những tìm hiểu đọc về nhau trên facebook, trên báo chí. Trung Sỹ cho đăng tải nhiều đoạn hồi ức chiến trận cũng như những ký ức về Hà Nội rất sống động. Những thằng lính đã qua sống chết có những kiểu trọng thị nhau rất khác người. Như rất nhiều thanh niên Hà Nội nhập ngũ, chàng trai Xuân Tùng mang theo nhiều tài lẻ. Sinh sống trong một gia đình bố là bác sĩ, mẹ là cô giáo dòng dõi con nhà tư sản từng hiến tặng tài sản, biệt thự trong cải tạo tư sản công thương nên cậu bé Tùng được dạy dỗ cẩn thận và đặc biệt là được đọc nhiều sách từ nhỏ. Về điểm này, tôi nghĩ quan trọng nhất trong hành trang của mỗi nhà văn chính là kiến thức thu nhận được từ những cuốn sách từ thơ ấu. Có lẽ vì thế nên ngôn ngữ của "Chuyện lính Tây Nam" đặc biệt sắc nét, mang tính công phá lớn rất phù hợp với một cuốn sách về chiến tranh.

Tiếp xúc ít nhưng tôi nhanh chóng nhận ra khả năng của Trung Sỹ ở nhiều khía cạnh. Cái chi tiết đập vỡ cây đàn ghi-ta trong "Chuyện lính Tây Nam" nói lên khả năng đàn hát của người cựu binh gốc Hà Nội này. Tùng uống ít rượu nhưng vui hết mình bằng những bài hát về Hà Nội. Thú thực ngồi với anh được nghe lại những bài hát đám lính trẻ dạo nào cùng nhau đàn hát sau buổi hành quân thậm chí sau một trận đánh khói bom vương khét thấy nôn nao xúc động lạ thường. Gặp Trung Sỹ, dần dà tôi được lý giải vì sao chỉ bằng một cuốn sách, tên tuổi anh đã được ghi nhận. Trí nhớ của tác giả này vào hàng cực siêu. Điều này rất dễ nhận ra trong các chi tiết nhỏ nhất của những người lính tham gia chiến trận và những kỷ niệm về Hà Nội. Với khả năng lưu trữ thông tin ăm ắp cộng với năng lực thể hiện ngôn ngữ của nhà văn "trẻ" này, tôi tin nếu tiếp tục dấn thân vào nghiệp văn, anh sẽ trưởng thành và gặt hái những kết quả tốt đẹp.

Mới đây, Trung Sỹ gọi điện hẹn đến nhà tôi. Những tưởng chỉ là gặp gỡ giao lưu thông thường như cái cách chúng tôi vẫn thể hiện nhưng không, anh mang tặng tôi cuốn sách mới còn thơm mùi mực in. Tôi cầm cuốn sách thứ hai vừa ra lò, hoàn toàn không ngạc nhiên bởi những trích đoạn của cuốn sách này đã được Trung Sỹ đăng tải trên Facebook, trên một số tờ báo. Lại là một cuốn hồi ức nhưng cũng có thể coi đó là một cuốn tiểu thuyết mang tính tự truyện.

Vẫn là một Hà Nội cũ của tôi, của rất nhiều người Hà Nội. "Hà Nội, Mũ rơm và Tem phiếu" in khổ to dày dặn với 270 trang viết. Đã có nhiều tác giả thành danh chọn lựa viết về Hà Nội. Ngay các nhà văn đương đại cũng hình thành một đội ngũ đông đảo, có thể kể đến Đỗ Phấn, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Ngọc Tiến... Ngay cả tôi cũng có đôi cuốn tạp văn. Nhưng cách viết của Trung Sỹ hoàn toàn khác. Đa số các tác giả viết về Hà Nội thành từng bài nhỏ riêng biệt. Một thú chơi, một món ăn, một kỷ niệm phố phường hay những địa danh lịch sử. Mỗi một góc nhìn, mỗi tác giả có cách kiến giải về Hà Nội của riêng mình. "Hà Nội, Mũ rơm và Tem phiếu" có cấu trúc khác hẳn. Nó là một câu chuyện dài liền mạch về thủ đô, trong đó có xuất thân gia đình và dòng họ, có tuổi thơ sơ tán đi học và có những ngày cực nhọc bao cấp khốn khó. Và người viết về cái Hà Nội cũ kỹ ấy là một cậu bé cực kỳ tinh nhạy của Hà Nội năm nào.

Tôi rất tâm đắc về ít dòng nhận xét của nhà văn Bình Ca in ở cuối sách: "Hà Nội, Mũ rơm và Tem phiếu" đưa bạn đọc lên con thuyền ký ức, trôi về một thời khó khăn, vất vả, ấu trĩ nhưng vẫn lấp lánh vẻ đẹp trong không gian ngập tràn tiếng cười, nỗi lo toan và cả những hoài nghi, trăn trở. Để ghi lại chân xác những khoảnh khắc đó phải có một tình yêu sâu nặng với Hà Nội...".

Tình yêu sâu nặng với Hà Nội, đúng thế. Cậu bé Xuân Tùng, người lính và bây giờ là nhà văn có bút danh Trung Sỹ lạ lùng này không thể viết về những năm tháng chiến tranh của đời mình, dân tộc mình và một Hà Nội cổ kính ngàn năm nếu không có một trái tim mẫn cảm và một tình yêu được hun đúc bằng những trải nghiệm quý giá.

Ôi, người bạn lính của tôi, nhà văn Trung Sỹ!