Tăng tỷ lệ người cao tuổi tham gia bảo hiểm y tế

Đối với người cao tuổi (NCT), chi phí điều trị thường cao gấp từ tám đến mười lần so với người trẻ; mặc dù NCT chiếm hơn 10% số dân nhưng sử dụng tới hơn 50% chi phí điều trị mỗi năm. Thực trạng đó cho thấy việc bao phủ bảo hiểm y tế (BHYT) toàn dân là giải pháp hiệu quả để giải quyết vấn đề an sinh xã hội, chăm sóc sức khỏe cho người dân nói chung và NCT hiện nay.

Từ năm 1992, Việt Nam bắt đầu áp dụng chính sách BHYT nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám, chữa bệnh (KCB), cũng như giảm chi tiêu y tế đối với người dân, trong đó có NCT. Việc tham gia BHYT của NCT tăng lên đáng kể theo thời gian, nhất là nhóm NCT dân tộc thiểu số và nhóm thuộc hộ nghèo. Tuy nhiên, theo số liệu thống kê, hiện nay tỷ lệ tham gia BHYT của NCT còn thấp, có khoảng 60% số NCT có BHYT, thấp hơn khá nhiều so với tỷ lệ người tham gia BHYT. Như vậy, có khoảng 40% NCT không có BHYT sẽ phải tự chi trả cho phí KCB ngày càng gia tăng. Tỷ lệ NCT ở nhóm từ 60 đến 79 tuổi không thuộc hộ nghèo, cận nghèo mua thẻ BHYT tự nguyện rất thấp chỉ chiếm từ 5% đến 10%. Trong số NCT chưa có thẻ, có 60% NCT nói rằng họ không có tiền mua thẻ BHYT mức mua 500 nghìn đồng/người/năm/thẻ. Đáng chú ý, việc sử dụng BHYT trong KCB không có sự khác biệt nhiều về tỷ lệ KCB và số lần KCB nội trú trung bình giữa các nhóm dân số cao tuổi có BHYT. Nhưng có sự khác biệt đáng kể về số lần KCB ngoại trú trung bình và chi phí trung bình cho mỗi lần giữa các nhóm.

Ngoài ra, hiện nay còn có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm NCT có BHYT sử dụng dịch vụ y tế ở các cơ sở y tế khác nhau. Thực trạng này cũng lý giải nguyên nhân tại sao nhóm NCT yếu thế chỉ tiếp cận, sử dụng dịch vụ y tế ở cấp cơ sở, nơi các dịch vụ y tế ít được đầu tư, chất lượng thấp. Trong khi đó, việc sử dụng dịch vụ y tế bệnh viện T.Ư được đầu tư và chất lượng cao, chi phí cao thì nhóm NCT yếu thế có tỷ lệ sử dụng thấp hơn nhiều so với nhóm còn lại tương ứng.

Tuy nhiên, có thẻ BHYT không có nghĩa là sẽ tiếp cận được dịch vụ y tế có chất lượng, nguyên nhân chính là do chi phí cao và khó khăn trong tiếp cận các cơ sở y tế. Nhóm NCT yếu thế có nhu cầu dịch vụ y tế cao hơn khi đối mặt với những vấn đề sức khỏe. Theo quy định, NCT được ưu tiên KCB, đặc biệt là từ 80 tuổi trở lên được phát thẻ BHYT miễn phí, nhưng NCT gặp nhiều khó khăn từ những thủ tục hành chính trong nhập viện, thanh toán BHYT để kịp thời điều trị. Một khảo sát cho thấy: chỉ có một phần ba NCT có thể BHYT cảm thấy hài lòng với tinh thần phục vụ của nhân viên y tế; thậm chí có những cơ sở y tế phân biệt người có thẻ BHYT bắt buộc với BHYT miễn phí trong cung cấp dịch vụ. Bên cạnh đó, việc tổ chức triển khai chính sách BHYT cho NCT còn nhiều hạn chế, trong đó nổi bật nhất là ở tuyến cơ sở với kinh phí thấp nên cơ sở vật chất nghèo nàn, hầu như không có cán bộ chuyên ngành lão khoa và năng lực chuyên môn còn hạn chế. Chưa có nơi KCB riêng và chính sách riêng là bất cập ảnh hưởng đến việc mở rộng đối tượng tham gia BHYT.

Quá trình già hóa dân số đang tăng nhanh đặt ra yêu cầu việc cung cấp BHYT và dịch vụ y tế đầy đủ cho NCT phải được chuẩn bị tốt ngay từ thời điểm hiện tại. Điều này sẽ giúp NCT phòng ngừa được các bệnh mãn tính, cũng như giảm bớt gánh nặng chi tiêu cho y tế. Các địa phương cần đưa chỉ tiêu số dân trong đó có NCT tham gia BHYT vào nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của địa phương. Thực hiện các chính sách BHYT đối với NCT cần hướng đến khu vực nông thôn; khuyến khích nông dân “lo cho tuổi già từ khi còn trẻ”, tích cực tham gia BHYT tự nguyện. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về BHYT theo hướng chuyên nghiệp hóa về nội dung và phương pháp tiếp cận đơn giản, dễ hiểu, phù hợp với NCT, nhất là với NCT dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa nhằm giúp NCT hiểu được quyền và nghĩa vụ về BHYT. Hoàn thiện việc sửa đổi, bổ sung các văn bản quy định về giá dịch vụ theo hướng tính đúng, tính đủ. Có sự thay đổi mức đóng, mức hỗ trợ đóng BHYT phù hợp với khả năng đóng góp của NCT mỗi khu vực (thành thị, nông thôn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn).

Mặt khác các cơ sở KCB cần cải thiện hiệu quả cung cấp dịch vụ, nhất là y tế cấp cơ sở nhằm cung cấp dịch vụ đầy đủ, kịp thời. Tăng khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của NCT, bảo đảm khả năng cung ứng dịch vụ thông qua việc tăng cường về số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ y tế ở khắp các tỉnh, thành phố. Nâng cao chất lượng dịch vụ y tế dự phòng, mang lại lợi ích lâu dài và bền vững cho người dân nói chung và NCT nói riêng; các cơ sở y tế đóng vai trò quan trọng, cho nên việc đầu tư vào các dịch vụ y tế cấp xã/phường là giải pháp hiệu quả dẫn đến thành công của BHYT toàn dân, với mục tiêu dịch vụ y tế đầy đủ cho mọi người, trong đó có NCT.