Hợp tác ngăn ngừa bệnh ung thư vú

NDO -

Chiều 19-1, Bộ Y tế và Tổng hội Y học Việt Nam ký kết bản ghi nhớ thực hiện đề án "Tăng cường tiếp cận các liệu pháp điều trị tiên tiến cho người bệnh ung thư vú nguy cơ cao giai đoạn 2020 - 2025". 

Bộ Y tế và Tổng Hội Y học Việt Nam ký kết hợp tác thực hiện Đề án.
Bộ Y tế và Tổng Hội Y học Việt Nam ký kết hợp tác thực hiện Đề án.

Mục tiêu của đề án nhằm góp phần gia tăng tỷ lệ chẩn đoán ở giai đoạn sớm cho người bệnh ung thư vú và tăng tỷ lệ người bệnh ung thư vú nguy cơ cao được điều trị với các liệu pháp tiên tiến hằng năm.        

Để đạt được mục tiêu đó, Bộ Y tế và Tổng hội Y học Việt Nam hợp tác trên các lĩnh vực: Tăng cường sàng lọc, phát hiện sớm ung thư vú thông qua triển khai nâng cao nhận thức cộng đồng, khám tầm soát về ung thư vú, xây dựng chính sách bảo hiểm y tế, hướng dẫn chuyên môn về khám sàng lọc ung thư vú. Củng cố năng lực hệ thống khám, chữa bệnh về chẩn đoán, điều trị ung thư vú. Phát triển hệ thống dữ liệu RWD real-world data về ung thư vú và tối ưu hóa sử dụng dữ liệu sẵn có. Triển khai các nghiên cứu tổng quan về chính sách chi trả, chi phí - hiệu quả, khảo sát thực trạng tầm soát ung thư vú, khảo sát sử dụng thuốc trong điều trị ung thư vú có HER2 dương tính.        

Theo đánh giá, đây là đề án chuyên biệt về ung thư vú, lần đầu tiên được triển khai ở quy mô toàn quốc và có sự chung tay, hợp tác chặt chẽ giữa các bên liên quan từ các cấp chính phủ (Bộ Y tế, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam) đến cơ quan chuyên môn, các bệnh viện: K, Bạch Mai, Ung bướu TP Hồ Chí Minh, Ung bướu Hà Nội, Chợ Rẫy và các đơn vị tài trợ.      

Ung thư vú là bệnh ung thư hàng đầu ở phụ nữ, ở cả các nước phát triển và đang phát triển. Tỷ lệ mắc bệnh ung thư vú đang gia tăng ở các nước đang phát triển do tuổi thọ tăng, tốc độ đô thị hóa tăng và thay đổi lối sống.        

Theo báo cáo ghi nhận ung thư toàn cầu Globocan 2020, tại Việt Nam có 21.555 người mắc ung thư ở nữ, đứng hàng thứ nhất, chiếm 25,8% trong tổng số phụ nữ mắc ung thư. Còn tính theo cả hai giới thì đứng hàng thứ ba (sau ung thư gan và ung thư phổi).        

Mặc dù có thể đạt được mục tiêu giảm một số nguy cơ gây ung thư vú thông qua dự phòng, nhưng chiến lược này không thể loại bỏ phần lớn ung thư vú đang phát triển ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình, nơi ung thư vú được chẩn đoán ở giai đoạn rất muộn. Do đó, phát hiện sớm để cải thiện kết quả, đồng thời tăng tiếp cận các liệu pháp điều trị phù hợp, tiên tiến là một giải pháp quan trọng trong kiểm soát ung thư vú.        

GS,TS Trần Văn Thuấn, Thứ trưởng Y tế cho biết: Thực hiện đề án "Tăng cường tiếp cận các liệu pháp điều trị tiên tiến cho người bệnh ung thư vú nguy cơ cao giai đoạn 2020 - 2025" sẽ góp phần vào mục tiêu chung của Chiến lược quốc gia phòng, chống bệnh không truyền nhiễm, trong đó có ung thư, giai đoạn 2015 - 2025. Khi được triển khai toàn quốc và với sự hợp tác của các cấp, ban ngành, cơ quan y tế sẽ mang lại những thay đổi tích cực, bền vững, góp phần nâng cao khả năng ứng phó với ung thư của Việt Nam.    

PGS, TS Nguyễn Thị Xuyên, Chủ tịch Tổng Hội Y học Việt Nam cho biết: Đề án là một dự án hết sức có ý nghĩa, nhân văn, mang lại lợi ích thiết thực cho người bệnh. Đề án này giúp nâng cao năng lực cho các bác sĩ về phát hiện sớm, điều trị ung thư vú, qua đó người bệnh sẽ được tiếp cận và sử dụng dịch vụ có chất lượng.