Kiểm soát tình trạng buôn bán, tiêu thụ động vật hoang dã

Tình trạng buôn bán, tiêu thụ động vật hoang dã (ĐVHD) bất hợp pháp, không bền vững đang trở thành một vấn đề nghiêm trọng và gây ra mối đe dọa lớn đối với đa dạng sinh học (ĐDSH) của Việt Nam. Vấn nạn này, cùng với việc thu hẹp sinh cảnh sống của các loài do các hoạt động phát triển đã đẩy nhiều loài ĐVHD bị tuyệt chủng hoặc tiến tới bên bờ của sự tuyệt chủng.

Lực lượng chức năng kiểm đếm số lượng tê tê bị bắt giữ.
Lực lượng chức năng kiểm đếm số lượng tê tê bị bắt giữ.

Số liệu thống kê của Cục Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho thấy: Từ năm 2010 đến 2014, lực lượng kiểm lâm trên cả nước đã phát hiện và xử lý vi phạm về quản lý ĐVHD là 3.823 vụ, tịch thu 58.869 cá thể ĐVHD, trong đó có 3.078 cá thể thuộc loài nguy cấp, quý, hiếm. Đáng lo ngại, một số loài, sản phẩm của các loài thuộc Danh mục nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ như tê tê, gấu, sừng tê giác, ngà voi... đang trở thành hàng hóa được tiêu thụ trong nước và được chung chuyển xuyên biên giới sang một số nước trong khu vực. Một số loài quý hiếm ở Việt Nam như tê giác Java và bò xám hiện đã tuyệt chủng trong tự nhiên; các loài khác như hổ, voi và một số loài linh trưởng, rùa quý hiếm, đặc hữu cũng đang phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng...

Các chuyên gia trong lĩnh vực này nhận định, tình trạng buôn bán, tiêu thụ ĐVHD ở nước ta đã trở thành một mối quan ngại lớn đối với công tác bảo tồn ĐDSH, nhất là sự phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam. Trong khi đó, nhu cầu sử dụng ĐVHD làm thực phẩm, thuốc chữa bệnh, đồ trang sức, thời trang, mỹ nghệ, trưng bày, trang trí, quà biếu, tặng dường như không giảm mà có xu hướng tăng. Kết quả khảo sát kiến thức, thái độ hành vi liên quan đến sử dụng ĐVHD tại Hà Nội, do Viện Xã hội học phối hợp Cục Bảo tồn ĐDSH (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho thấy: Có đến 19% số người trả lời có ý định hoặc tiếp tục sử dụng thực phẩm từ ĐVHD làm thuốc và đồ trang trí... Tình trạng buôn bán, tiêu thụ ĐVHD tại Việt Nam, không chỉ hủy diệt quần thể loài động vật trong tự nhiên, phá hủy hệ sinh thái, làm tổn thương đến ĐDSH, môi trường, mà còn làm cho Việt Nam mất đi một phần di sản văn hóa; các điểm du lịch sinh thái quan trọng, cũng như suy giảm các nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá phục vụ cho phát triển kinh tế -xã hội của đất nước. Đồng thời, đưa đến các hệ lụy về mặt xã hội như gia tăng các vi phạm pháp luật, ảnh hưởng tới tập quán tiêu dùng thực phẩm, môi trường sinh thái, tài nguyên sinh vật, nhất là hình ảnh, uy tín của đất nước và con người Việt Nam trên trường quốc tế.

Tình trạng buôn bán, tiêu thụ ĐVHD ở nước ta tiếp tục gia tăng thời gian qua, do dân số tăng kéo theo áp lực về khai thác, tiêu dùng ĐVHD là thực phẩm và làm thuốc, nhất là một số loài ĐVHD được quảng bá về những tính năng đặc biệt như bồi bổ sức khỏe, chữa bệnh nan y. Tuy nhiên, đến nay có rất ít bằng chứng khoa học chứng minh được các công dụng đó nhưng ĐVHD vẫn trở thành đối tượng bị săn lùng, khai thác tận diệt. Đáng chú ý, việc xử lý vi phạm pháp luật về buôn bán, tiêu thụ ĐVHD trái phép còn chưa nghiêm, chủ yếu là xử phạt hành chính, mức phạt còn nhẹ, mức phạt cao nhất hiện nay cũng không quá 500 triệu đồng. Trong khi đó, năng lực phát hiện vi phạm pháp luật về lĩnh vực này của cơ quan pháp luật như: Hải quan, kiểm lâm, cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường, quản lý thị trường... lực lượng còn mỏng, trang thiết bị, phương tiện còn hạn chế; khả năng đấu tranh đối với loại hình vi phạm này của lực lượng chuyên trách còn chưa theo kịp các thủ đoạn tinh vi, chuyên nghiệp của các đối tượng vận chuyển, buôn bán trái phép các ĐVHD nguy cấp, quý hiếm.

Bên cạnh đó, do thiếu biện pháp quản lý, kiểm soát hiệu quả đối với hoạt động gây nuôi ĐVHD. Mặc dù đã có những quy định của pháp luật về vấn đề này như quy định việc kiểm soát nguồn gốc con giống, nguồn gốc cá thể gây nuôi thương mại... nhưng trên thực tế việc kiểm soát cá thể gây nuôi còn theo hồ sơ, giấy phép, không quy định về việc đánh dấu cá thể gây nuôi. Vì vậy, xuất hiện tình trạng lợi dụng hoạt động này để trà trộn, buôn bán, vận chuyển bất hợp pháp ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm. Nhận thức, trình độ dân trí và ý thức bảo vệ môi trường, tài nguyên ĐDSH của người dân chưa cao; công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật về bảo vệ ĐVHD chưa được quan tâm đúng mức, cho nên tình trạng sử dụng ĐVHD hiện còn khá phổ biến của người dân tại nhiều địa phương...

Để từng bước chấm dứt tình trạng buôn bán, tiêu thụ ĐVHD ở Việt Nam thời gian tới, trước hết cần tiếp tục kiện toàn khung pháp lý và chính sách về quản lý, bảo vệ các loài động vật hoang dã; bổ sung những thiếu hụt, lỗ hổng, bất cập trong các chính sách hiện hành, nhằm bảo đảm tính răn đe và nghiêm minh của pháp luật, khung hình phạt phải tương quan với lợi nhuận thu được từ buôn bán trái phép ĐVHD. Tăng cường năng lực cho các cơ quan thực thi pháp luật để kiểm soát tiêu thụ ĐVHD trái phép và không bền vững; tổ chức kiểm tra việc săn bắt, vận chuyển, tiêu thụ tại các nhà hàng, khách sạn, nơi chế biến, kinh doanh ĐVHD....

Đẩy mạnh sự phối hợp giữa các Bộ Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công an, Tư pháp và các cơ quan khác để giải quyết ba vấn đề chính của nạn buôn bán trái phép ĐVHD (gồm săn bắt, buôn bán và làm giảm nhu cầu) một cách toàn diện và đồng bộ. Nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật và huy động sự tham gia của cộng đồng trong công tác bảo vệ ĐVHD, nhất là khuyến khích để người dân trở thành là "tai", là "mắt" trong việc phát hiện các vụ việc vi phạm bảo vệ ĐVHD; đồng thời thúc đẩy sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tuyên truyền, vận động và phổ biến các thông tin về bảo vệ ĐVHD, đến mọi tầng lớp nhân dân.