Những cống hiến vĩ đại của Ph. Ăng-ghen với sự ra đời và phát triển Chủ nghĩa Mác - Lê-nin

NDO -

Cùng với C. Mác, tên tuổi Ph. Ăng-ghen đã đi vào lịch sử nhân loại với tư cách là nhà tư tưởng, người thầy, lãnh tụ kiệt xuất của giai cấp công nhân trên thế giới, là người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại, giải phóng con người. Ông cũng là người cổ vũ tinh thần, nhà tổ chức kiệt xuất của giai cấp công nhân các nước châu Âu vào nửa cuối thế kỷ XIX.

Những cống hiến vĩ đại của Ph. Ăng-ghen với sự ra đời và phát triển Chủ nghĩa Mác - Lê-nin

Đánh giá công lao của Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin khẳng định: “Muốn đánh giá đúng đắn những quan điểm của Mác, tuyệt đối phải đọc những tác phẩm của người cùng tư tưởng và người cộng tác gần gũi nhất của Mác là Phri-đrích Ăng-ghen.

Không thể nào hiểu được chủ nghĩa Mác và trình bày đầy đủ được chủ nghĩa Mác, nếu không chú ý đến toàn bộ những tác phẩm của Ăng-ghen” (V.I. Lê-nin, Toàn tập, tập 26, NXB Tiến bộ, M.1980, tr.110). Đúng vậy, C. Mác và Ph. Ăng-ghen hai người mà như một, nên khi nói đến C. Mác mà không nói đến Ph. Ăng-ghen sẽ là không đầy đủ.

Trong hệ thống những nguyên lý các ông xây dựng rất khó phân định đâu là phần do C. Mác xây dựng, đâu là phần công lao của Ph. Ăng-ghen. Hai ông không chỉ gắn kết chặt chẽ như hai người đồng chí, hai người bạn, mà vĩ đại hơn nữa là họ gắn kết chặt chẽ trong cả hoạt động lý luận và hoạt động chính trị xã hội.

Sinh thời, Ph. Ăng-ghen khiêm tốn nhận mình là “cây vĩ cầm thứ hai” bên cạnh Mác. Song sau khi C. Mác qua đời, chính Ph. Ăng-ghen là người duy nhất có khả năng triển khai những gì C. Mác chưa kịp hoàn thành trong tư tưởng và hệ thống tác phẩm của mình.

Đóng góp to lớn của Ph. Ăng-ghen với chủ nghĩa Mác - Lê-nin thể hiện trong những tác phẩm viết chung với C. Mác (như Gia đình Thần thánh, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản) và các tác phẩm viết riêng (như Tình cảnh của giai cấp công nhân ở Anh, Chống Đuyrinh, Biện chứng tự nhiên, L. Phoi-ơ-bach và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, …).

Trong đó, các nguyên lý, quy luật, phạm trù được xây dựng, trình bày một cách hệ thống, gồm: các vấn đề về chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản khoa học, các vấn đề kinh tế chính trị mác-xít, và lý luận quân sự hiện đại…

Trước hết phải khẳng định, Ph. Ăng-ghen là người đầu tiên vận dụng phép biện chứng duy vật vào việc nhận thức các quy luật của tự nhiên, luận giải, khái quát các thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên và phê phán quan điểm duy tâm thần bí, siêu hình, máy móc đang thống trị trong khoa học tự nhiên đương thời.

Nhận thức được vai trò, ý nghĩa hết sức to lớn của phép biện chứng duy vật trong phát triển tư duy, khái quát các lĩnh vực của hiện thực, chỉ ra mối quan hệ giữa các lĩnh vực đó với nhau và xu hướng vận động phát triển,… Ph. Ăng-ghen đưa ra dự đoán thiên tài về mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên, như ông đã nhấn mạnh: “phép biện chứng duy vật chủ nghĩa đó, cái mà trong nhiều năm vẫn là một công cụ lao động tốt nhất của chúng tôi và là một vũ khí sắc bén nhất của chúng tôi” (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, tập 21, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, tr.430).

Từ đó, Ph. Ăng-ghen kết luận: phép biện chứng là phương pháp tư­ duy cao nhất, thích hợp nhất với giai đoạn phát triển hiện nay của khoa học tự nhiên, vì chỉ có phép biện chứng mới đem lại phương pháp giải thích các quá trình phát triển diễn ra trong giới tự nhiên, giải thích những mối quan hệ chung, những bước quá độ, những sự chuyển hóa.

Các luận giải thiên tài đó đã làm cho Ph. Ăng-ghen vượt lên trước giới nhà khoa học cùng thời. Và thực tế hằng trăm năm qua cho thấy, phép biện chứng duy vật đã cung cấp cho giới khoa học một thế giới quan đúng đắn, một phương pháp nhận thức sắc bén để thực hành nghiên cứu một cách có hiệu quả trên mọi lĩnh vực.

Phải nói rằng việc Ph. Ăng-ghen áp dụng phép biện chứng duy vật vào nghiên cứu lĩnh vực xã hội đã vén “tấm màn bí ẩn” được che đậy suốt nhiều thế kỷ, khi ông và C. Mác phê phán toàn diện các hạn chế trong quan điểm duy tâm của phái Hê-ghen trẻ, trong triết học của L. Phoi-ơ-bach, cũng như những quan điểm duy tâm lúc đó.

Các ông đã khẳng định vai trò quyết định của sản xuất vật chất đối với đời sống xã hội, coi đó là điểm xuất phát để nghiên cứu xã hội, chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; đề cập mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội; thừa nhận sự phát triển của xã hội là mang tính khách quan… 

Những thành tựu nghiên cứu quan trọng này giúp Ph. Ăng-ghen đi đến kết luận rằng sự phát triển của lực lượng sản xuất sẽ dẫn tới sự ra đời chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, theo đó, xã hội bị phân chia thành các giai cấp. Ph. Ăng-ghen chỉ ra, khẳng định nguyên nhân sâu xa của mọi cuộc cách mạng là do mâu thuẫn giữa sự phát triển lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất không còn phù hợp; chỉ ra quy luật phát triển của các cuộc cách mạng xã hội, và vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử.

Đây là cơ sở để ông và C. Mác khẳng định sự hình thành, diệt vong của giai cấp gắn liền với các điều kiện kinh tế - xã hội; khẳng định tính tất yếu của cách mạng vô sản và sứ mệnh của giai cấp vô sản, như C. Mác và Ph. Ăng-ghen chỉ rõ: “Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp” (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, tr.610).

Ph. Ăng-ghen là người đã dày công nghiên cứu, trình bày các nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản một cách đầy đủ, rõ ràng, chặt chẽ nhất, và chính ông là người đã diễn đạt hệ thống nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản khoa học trong tư cách là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác.

Ph. Ăng-ghen chỉ ra những lĩnh vực có ý nghĩa quyết định một xã hội trong tương lai là: lịch sử, lý luận, sản xuất, phân phối, nhà nước, gia đình, giáo dục. Ông cũng đã luận chứng đầy đủ, thuyết phục sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học, cùng C. Mác phác thảo bức tranh về xã hội xã hội chủ nghĩa tương lai.

Với tầm nhìn xa trông rộng, Ph. Ăng-ghen không chỉ có đóng góp quan trọng trong lý luận về nguồn gốc, bản chất, đặc trưng, chức năng xã hội của nhà nước, vấn đề nhà nước tiêu vong, mà còn đưa ra các chỉ báo để giai cấp vô sản xây dựng nhà nước vô sản với tính cách là nhà nước không nguyên nghĩa, nhà nước “nửa nhà nước”.

Và khi đặt vấn đề xây dựng xã hội tương lai, Ph. Ăng-ghen đặc biệt lên án căn bệnh chủ quan, duy ý chí, cho rằng xã hội mới do các ông chỉ ra mới là các chấm phá, xã hội đó được xây dựng chi tiết như thế nào là nhiệm vụ của các thế hệ sau, dựa trên các điều kiện kinh tế, xã hội của thời đại mình.

Sự hình thành, phát triển của học thuyết kinh tế Mác-xít không thể không nói đến công lao vô cùng to lớn của Ph. Ăng- ghen với sự hy sinh của ông giúp cho C. Mác toàn tâm toàn ý hoàn thiện bộ Tư bản. Đồng thời, Ph. Ăng-ghen đã dành nhiều thời gian để viết các tác phẩm đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái thù địch, chống chủ nghĩa Mác.

Không những thế Ph. Ăng-ghen đã có đóng góp quan trọng khi nghiên cứu kinh tế chính trị, để xây dựng nên các quan niệm căn bản là: sự thống nhất của sản xuất, trao đổi và phân phối; sự khác nhau bên trong giữa sản xuất, trao đổi và phân phối; vai trò quyết định của sản xuất với phân phối và trao đổi.

Nghiên cứu các mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản, và tính chất chiểm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, Ph. Ăng-ghen chỉ ra khả năng khủng hoảng định kỳ trong xã hội tư bản. Đồng thời, khi nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc từ các nhà tư tưởng trước đó, ông đã đưa ra định nghĩa về kinh tế chính trị với tính cách như là một môn khoa học: Kinh tế chính trị trong nghĩa rộng là khoa học về các quy luật đang chi phối sản xuất và trao đổi của cải trong xã hội loài người.

Từ đó, Ph. Ăng-ghen trình bày hàng loạt quan điểm về nhận thức và sử dụng quy luật kinh tế ở chủ nghĩa xã hội và truyền bá, định hướng nhận thức học thuyết Mác trong phong trào công nhân.

Sau khi C. Mác qua đời, Ph. Ăng-ghen không chỉ hiệu đính, xuất bản quyển hai và quyền ba của bộ “Tư bản” mà còn là người trực tiếp bảo vệ, phát triển học thuyết kinh tế Mác-xít trong điều kiện chủ nghĩa tư bản phát triển lên chủ nghĩa độc quyền.

Đề cập các cống hiến vĩ đại của Ph. Ăng-ghen với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, cần phải đề cập việc ông là người đặt nền móng và phát triển lý luận quân sự Mác-xít, áp dụng các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật của phép biện chứng duy vật vào xem xét lĩnh vực quân sự; xây dựng hệ thống quan điểm khoa học về chiến tranh và quân đội; xây dựng cương lĩnh quân sự của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh giai cấp và thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của mình.

C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã làm cuộc cách mạng trong lý luận về chiến tranh và quân đội; giải thích đúng đắn lịch sử để phục vụ công cuộc cải tạo thế giới, giải phóng xã hội. Trong đó, Ph. Ăng-ghen là người xây dựng nên hệ thống tri thức khoa học về quân đội, chỉ rõ bản chất của quân đội là đội vũ trang có tổ chức, là công cụ bạo lực mang bản chất của giai cấp thống trị và nhà nước tổ chức ra nó. Và chính Ph. Ăng-ghen là người đề xuất các nguyên tắc căn bản để xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng của giai cấp vô sản.

Đến nay, cống hiến vĩ đại của Ph. Ăng-ghen với sự ra đời, phát triển của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn giữ nguyên giá trị, không chỉ trong việc phân tích các vấn đề cốt tử của chủ nghĩa tư bản mà còn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng việc dự báo về các cuộc khủng hoảng tất yếu của chủ nghĩa tư bản.

Quan trọng hơn, tư tưởng của Ph. Ăng-ghen và C. Mác luôn có vai trò chỉ đạo đối với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới.

Như các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã khẳng định, chủ nghĩa Mác - Lê-nin không phải là “học thuyết nhất thành bất biến” mà các thế hệ kế tục cần đem lại sức sống cho nó thông qua việc vận dụng, sáng tạo, bổ sung phù hợp với sự vận động phát triển của thực tiễn.

Vì thế, để kế tục và phát triển tư tưởng của các ông, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, phát hiện, khái quát, bổ sung nhằm hoàn chỉnh lý luận về con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng đạt nhiều thành tưu mới hơn nữa.