Nhiều vấn đề "nóng" tại họp báo Chính phủ thường kỳ

NDO -

Chiều 30-10, tại Hà Nội, Văn phòng Chính phủ họp báo thường kỳ dưới sự chủ trì của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng.

Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng chủ trì họp báo. Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng chủ trì họp báo. Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Tích cực xử lý nợ xấu

Về việc xử lý nợ xấu, Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết, tình hình nợ xấu, xử lý nợ xấu được Đảng, Chính phủ, Quốc hội quan tâm. Quốc hội ban hành Nghị quyết 42 thí điểm xử lý nợ xấu. Các đơn vị đã tích cực triển khai thực hiện trong gần ba năm qua với hiệu quả cao, các vướng mắc khó khăn được khắc phục. Theo thống kê, lũy kế từ ngày 15-8-2017 (thời điểm Nghị quyết 42 có hiệu lực) đến ngày 30-9-2020, đã có hơn 313 nghìn tỷ đồng nợ xấu được xử lý, nợ xấu nội bảng 167,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 53,8%, xử lý các khoản nợ ngoài bảng cân đối đạt 74,9 nghìn tỷ đồng, các khoản nợ xấu đã bán cho Công ty Quản lý tài sản (VAMC) dưới hình thức trái phiếu đặc biệt được 69,5 nghìn tỷ đồng.

Trong chín tháng đầu năm 2020, đại dịch Covid-19 trên thế giới diễn biến phức tạp, tác động nghiêm trọng mọi mặt đời sống kinh tế khiến người gửi tiền ngân hàng là doanh nghiệp, người dân gặp khó khăn, nguồn thu giảm, khả năng trả nợ khó khăn. Trong đó, các ngân hàng là trung gian tài chính cũng bị ảnh hưởng. Đó là nguyên nhân dẫn đến nợ xấu tăng. Một nguyên nhân nữa là vấn đề kỹ thuật tính toán. Trong bối cảnh tác động của dịch Covid-19, tình hình kinh tế khó khăn, cầu tín dụng không cao như những năm trước, do đó, tỷ lệ tương đối nợ xấu/dư nợ phát sinh cũng tăng lên.

Về phía mình, trong thời gian qua, NHNN đã chủ động triển khai nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Cụ thể, NHNN đã ban hành Thông tư 01/2020/TT-NHNN quy định về việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Đồng thời, chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) thực hiện cơ cấu miễn giảm lãi, hoãn giãn nợ, gỡ khó cho doanh nghiệp và người dân. Trong thời gian tới, tình hình dịch Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp chưa rõ thời điểm kết thúc, nếu dịch tiếp tục gây khó khăn cho doanh nghiệp, thương mại quốc tế, dịch vụ thì nhiều khả năng làm nợ xấu hệ thống ngân hàng tăng lên. NHNN đã giao các đơn vị chức năng đánh giá phân tích ứng phó tình hình, bảo đảm an toàn hệ thống, các TCTD.

Tăng cường sức chống chịu của công trình trước bão lũ

Thứ trưởng Xây dựng Lê Quang Hùng cho biết, chúng ta có ba hình thái thiên tai: Gió bão, lũ lụt và lũ ống, lũ quét, sạt lở đất. Trước hết về gió bão, vấn đề này thường xảy ra ở khu vực biển với khoảng cách cự ly là 30 đến 50 km từ bờ biển vào. Về giải pháp công trình, chúng ta thực hiện được. Qua khảo sát, nhà có ba cứng (sàn cứng, tường cứng, mái cứng) cơ bản là chịu được các gió bão; chủ yếu nhà cấp 4, mái tôn, cổng chào, mái kính... đổ vỡ là chính. Đối với hình thái thiên tai này, chúng ta đã có giải pháp công trình để có thiết kế cho phù hợp.

Thứ hai, về lũ lụt, cách đây bảy năm, chúng ta đã có Quyết định số 48/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ  về chương trình nhà ở vượt lũ cho đồng bào miền trung. Thực tế, đã xây dựng được hơn 3.200 nhà có cốt sàn trên mức đỉnh lũ, vừa rồi phát huy tốt, khoảng 5-10 m trên đỉnh lũ thì người dân và gia đình có thể rút lên đấy để cầm cự 10-15 ngày. Bộ sẽ phối hợp Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu để nhân rộng, phát triển thêm mô hình này, chủ yếu cần nguồn lực. Đây cũng là một giải pháp khả thi thực hiện được.

Đối với lũ ống, lũ quét sạt lở đất, không có giải pháp công trình nhà ở nào có thể chịu được lũ ống, lũ quét, sạt lở đất. Giải pháp để phòng chống là gì? Đối với việc xây mới, quan trọng là lựa chọn địa điểm để làm sao tránh được lũ ống, lũ quét, sạt lở đất. Hiện nay, chúng ta đã có bản đồ về lũ ống, lũ quét, sạt lở đất nhưng tỷ lệ không cao, khoảng 1/20.000 hoặc 1/50.000, xã chỉ là một chấm nhỏ, vấn đề làm sao là phải đưa ra t lệ 1/500. Bộ sẽ phối hợp cùng các chuyên gia để chuyển tỷ lệ này về 1/500 thì khi đó chúng ta mới quản lý được.

Với những công trình đã xây dựng rồi, như nhà đang tồn tại thì giải quyết thế nào? Một là rà soát để di dời, lựa chọn địa điểm khác như đã nói. Hai là cần có hướng dẫn, Bộ Xây dựng đang phối hợp Bộ Tài nguyên và Môi trường, các bộ có hướng dẫn rất cụ thể để người dân và hộ dân có thể nhận được cảnh báo. Đối với lũ quét, sạt lở đất, người dân nên nhận được những chỉ dẫn rất đơn giản về vấn đề địa chất, trung văn… trong bán kính khoảng 500 m. Hiện nay, Bộ Xây dựng đang phối hợp Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các bộ khác tiến hành những việc như thế.

Xác định nguyên nhân chính của thiên tai

Thứ trưởng Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành nêu rõ, trong đợt mưa lũ rất dài một tháng vừa qua, với sự vào cuộc quyết liệt của các nhà báo, có cả các nhà báo hy sinh, đã thông tin bão lũ kịp thời đến các cấp chính quyền, người dân và góp phần làm giảm thiểu thiệt hại đến mức thấp nhất. Đợt thiên tai vừa rồi có lẽ khốc liệt hơn đợt thiên tai năm 1999, xảy ra tại khu vực miền trung với bốn trận bão liên tiếp, số 6, 7, 8, 9 trong đó cơn bão số 9 mạnh nhất 20 năm vừa qua, mưa lớn kéo dài đã gây ra lượng mưa lớn hơn cả lịch sử năm 1999. Tuy nhiên, với sự vào cuộc quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng, các địa phương, đưa tin kịp thời của thông tin báo chí, đến giờ này, thiệt hại chỉ bằng một phần nhỏ so với năm 1999. Báo chí quan tâm đến hoạt động của con người có làm tăng thêm thiên tai hay không? Cụ thể ở đây là những thiên tai gây ra thiệt hại lớn về tính mạng của người dân thời gian vừa qua đó là sạt lở đất, lũ ống và lũ quét.

Chúng ta đã được các chuyên gia về địa chất đánh giá rằng, nguyên nhân chính khu vực miền trung là một khu vực đồi núi cao, phân cách, về địa chất có nhiều loại đất đá cổ, bị đập vỡ nứt nẻ tạo ra các lớp vỏ phong hóa rất dày, nhiều đất sét, đây là điều kiện hết sức bất lợi, khi mưa lớn, đặc biệt lâu ngày, nước chứa trong các lớp phong hóa này sẽ bị nhão và có lực trượt kéo xuống phía dưới. Ngoài ra, là hoạt động dân sinh, khi chúng ta phát triển, cần phải mở đường, san ủi để có mặt bằng xây dựng nhà ở, trường học, xây dựng các cơ sở hạ tầng, trong đó có cả các nhà máy thủy điện để bảo đảm an ninh năng lượng cho đất nước. Đây là những hoạt động tạo ra việc cắt taluy, mất chân sườn dốc, làm mất ổn định… Các hoạt động này là nguyên nhân kích hoạt để thiên tai có thể xảy ra.

Mất rừng có phải là nguyên nhân không? Cần đánh giá cụ thể rõ trong từng trường hợp cụ thể. Bởi vì như đã biết, năm 2016 ở Yên Bái, chúng ta đã chứng kiến những trận sạt lở đất kinh hoàng ở khu vực rừng nguyên sinh. Khi đó, chúng ta đã chụp được những bức ảnh từ flycam rừng nguyên sinh sạt lở như vết hổ cào trên sườn núi. Do đó, có thể do rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong vụ sạt lở đất vừa rồi, công trình thủy điện Rào Trăng 3 đang trong quá trình xây dựng thì xảy ra sự cố đáng tiếc. Thực tế vừa rồi, mưa lũ đều lớn hơn năm 1999, nhưng có thể nói chính quyền địa phương các tỉnh miền trung đã thực hiện quy trình vận hành liên hồ chứa, điều hành, cắt được rất nhiều lượng nước. Nếu lượng nước này mà về hạ du thì diện ngập, mức độ ngập hơn mức năm 1999. Thời gian vừa rồi, chúng ta thấy chỉ có một số điểm ở mức lũ lịch sử thôi, còn ở hạ du đã được cắt lũ, diện ngập, độ sâu ngập thấp hơn đáng kể so với năm 1999.

Về đánh giá tác động môi trường cho các công trình thủy điện nhỏ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, các cơ quan chuyên môn, các chuyên gia luôn luôn đánh giá thẩm định về các yếu tố tác động đến đặc thù, bao gồm các tác động đến rừng, thảm thực vật và đa dạng sinh học, đánh giá dòng chảy tối thiểu mà thủy điện trả lại cho hạ du và các yếu tố liên quan khác. Luật Lâm nghiệp đã có quy định hết sức chặt chẽ về việc chuyển đổi đất rừng cho tất cả các loại dự án, không riêng gì các dự án thủy điện với các biện pháp hạn chế hết sức chặt chẽ. Việc bảo đảm trồng lại rừng, phát triển rừng, hiện nay một số nhà máy thủy điện đã bắt đầu nâng cao nhận thức, thực hiện vừa giữ nguồn sinh thủy cho khu vực nhà máy của mình vừa bảo đảm tránh sạt lở đất.

Trong thời gian tới, để giảm thiểu các nguy cơ này, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công thương và các bộ có liên quan đã tham mưu cho Chính phủ loại bỏ 472 quy hoạch thủy điện nhỏ ra khỏi quy hoạch và 213 điểm tiềm năng có thể xây dựng thủy điện cũng cần được xem xét hết sức kỹ lưỡng, chặt chẽ để bảo đảm phát triển kinh tế xã hội địa phương, đặc biệt là khu vực miền núi, bảo đảm bền vững, tránh được những rủi ro thiên tai như trong thời gian vừa qua.