Ngoại giao Việt Nam: 75 năm đồng hành cùng dân tộc

Ngày 28-8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh thành lập Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, sáng lập nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. Trong 75 năm phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự dìu dắt trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngoại giao Việt Nam luôn đồng hành cùng dân tộc, phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Ngoại giao in đậm dấu ấn trên những chặng đường của đất nước, góp phần giành và giữ vững độc lập, đóng góp trong công cuộc kháng chiến thành công, thống nhất đất nước và trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc ngày nay. 

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh. (Ảnh: Bộ Ngoại giao)
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh. (Ảnh: Bộ Ngoại giao)

Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (năm 1945), dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Bác Hồ và các đồng chí lãnh đạo Đảng tiền bối, ngoại giao đã giữ vai trò tiên phong trong việc giữ vững độc lập nước nhà và bảo vệ thành công chính quyền cách mạng còn non trẻ. Những sách lược, quyết sách táo bạo, khôn khéo của ngoại giao, như “hòa để tiến”, “phân hóa kẻ thù”, cùng các nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu”…, đã giúp cách mạng nước ta vượt qua được những tình huống hiểm nghèo “ngàn cân treo sợi tóc”. Đồng thời, ngoại giao đã đi đầu trong việc vận động các nước công nhận nền hòa bình và độc lập của Việt Nam.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nền ngoại giao cách mạng Việt Nam đã trở thành một mặt trận quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, bộ phận cấu thành quan trọng trong đường lối cách mạng, sát cánh cùng mặt trận quân sự để đưa kháng chiến đi đến thắng lợi. Ngoại giao đã đi tiên phong trong việc tạo ra một mặt trận quốc tế, ủng hộ sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Ngoại giao giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập dân tộc, kiên trì kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh pháp lý, tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, mở rộng quan hệ với các nước dân tộc chủ nghĩa, hình thành mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân ta. Nhờ đó và cùng với thắng lợi trên chiến trường, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán để chấm dứt chiến tranh. Chiến thắng của ngoại giao trên bàn đàm phán ở Giơ-ne-vơ năm 1954 và ở Pa-ri năm 1973 là những dấu mốc quan trọng trên chặng đường giành lại độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. 
 
Trong công cuộc tái thiết và xây dựng đất nước, ngoại giao là lực lượng nòng cốt, tiên phong trong đấu tranh đưa đất nước ta thoát khỏi thế bị cô lập về chính trị, bao vây cấm vận về kinh tế. Đồng thời, ngoại giao đã tích cực tham gia giải quyết các vấn đề tồn tại giữa Việt Nam với các nước láng giềng, nước lớn, tạo ra những đột phá trong quan hệ đối ngoại của nước ta, trong đó có giải pháp cho vấn đề Cam-pu-chia và bình thường hóa quan hệ với các nước láng giềng, nước lớn. 

Những chặng đường vẻ vang của ngoại giao cách mạng Việt Nam được Bác Hồ và các nhà lãnh đạo tiền bối của Đảng dẫn dắt, góp phần định hình bản sắc, phong thái, phương pháp của ngoại giao Việt Nam. Từ nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “độc lập, tự chủ”, “đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu” đến phương châm “thêm bạn, bớt thù” và phương pháp ngoại giao tâm công, tranh thủ thời cơ, kiến tạo thời cơ, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tất cả đã trở thành những bài học kinh điển, vô giá về ngoại giao cách mạng mang đậm phong cách Hồ Chí Minh, đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, nhiệm vụ đối ngoại đặt ra là tiếp tục tạo môi trường và điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Trên cơ sở kế thừa nền tảng và kinh nghiệm đối ngoại của thời kỳ trước, ngoại giao đóng vai trò tiên phong, mở đường, phát triển và đưa quan hệ hợp tác của Việt Nam với các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới đi vào chiều sâu, mở rộng các thị trường, các lĩnh vực hợp tác mới, thu hút các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội, góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định, giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và nâng cao vị thế quốc tế của đất nước. 

Ngoại giao đã góp phần quan trọng trong việc mở rộng và đưa vào chiều sâu quan hệ đối ngoại của ta với các nước. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189 trong 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc; thiết lập khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu dài với 30 đối tác chiến lược và toàn diện, tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam cùng các nước nâng tầm hợp tác vì lợi ích của mỗi nước và vì hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Nỗ lực triển khai định hướng chiến lược tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, ngành ngoại giao đã tham mưu cho Đảng và Chính phủ các biện pháp, bước đi chiến lược đưa Việt Nam trở thành mắt xích quan trọng trong nhiều liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu, với việc ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) quan trọng như CPTPP, EVFTA..., qua đó tạo động lực to lớn cho phát triển. Bên cạnh đó, ngành ngoại giao tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành thúc đẩy hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực an ninh - quốc phòng, xã hội, văn hóa, khoa học - công nghệ... 

Ngoại giao đa phương trưởng thành mạnh mẽ và đạt những thành tựu quan trọng, khẳng định Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Không chỉ góp phần nòng cốt trong việc tổ chức thành công nhiều trọng trách quốc tế lớn, nhất là chủ nhà của Hội nghị cấp cao Pháp ngữ (năm 1997), ASEAN (các năm 1998, 2010, 2020), ASEM (năm 2005), APEC (các năm 2006, 2017), ngoại giao còn chủ động, tích cực đưa ra nhiều ý tưởng, sáng kiến, góp phần giải quyết các vấn đề chung của khu vực và thế giới. Đặc biệt, ngoại giao Việt Nam đóng góp quan trọng trong việc tổ chức Hội nghị cấp cao Hoa Kỳ - Triều Tiên lần hai tại Hà Nội, qua đó thúc đẩy đối thoại, hòa giải, hòa bình trên bán đảo Triều Tiên, được các đối tác và cộng đồng quốc tế đánh giá rất cao. Việt Nam tham gia, đóng góp tích cực ở hầu hết các tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, nhất là ASEAN, ASEM, APEC, Liên hợp quốc, G7, G20...
 
Ngoại giao cùng quốc phòng - an ninh góp phần hiệu quả vào bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, trong đó có nỗ lực đàm phán, xây dựng đường biên giới trên bộ hòa bình, hữu nghị và phát triển với Lào, Cam-pu-chia và Trung Quốc. Ngoại giao phối hợp chặt chẽ với quốc phòng và an ninh trong công cuộc “giữ nước từ sớm, từ xa, từ khi nước còn chưa nguy”, nhất là đấu tranh bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền của nước ta ở Biển Đông. 

Trong quá trình phát triển, ngoại giao ngày càng gắn kết với người dân, các địa phương và doanh nghiệp. Nhiều hoạt động ngoại giao kinh tế thiết thực được triển khai, góp phần mở rộng thị trường, đối tác cho doanh nghiệp. Ngoại giao văn hóa quảng bá hình ảnh Việt Nam giàu bản sắc, đổi mới thành công; đồng thời vận động để đến nay 39 di sản của Việt Nam được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới, qua đó vừa đóng góp cho việc bảo vệ các giá trị của nhân loại, vừa tạo nguồn lực cho phát triển ở nhiều địa phương. Ngành ngoại giao cũng triển khai tích cực, hiệu quả công tác bảo hộ công dân và công tác người Việt Nam ở nước ngoài. 

Kiên định nguyên tắc cơ bản là độc lập, tự chủ, đặt lợi ích của quốc gia - dân tộc lên trên hết, ngoại giao luôn sát cánh cùng các “binh chủng đối ngoại”, như đối ngoại Đảng, đối ngoại Quốc hội, đối ngoại nhân dân, đối ngoại quốc phòng - an ninh và đối ngoại của từng bộ, ngành, địa phương triển khai hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, cùng phấn đấu vì mục tiêu chung là phục vụ tốt nhất các lợi ích của đất nước, nâng cao vị thế của Việt Nam. Lực lượng cán bộ ngoại giao đã không ngừng lớn mạnh, từ 20 cán bộ trong những ngày đầu thành lập đã phát triển thành đội ngũ hàng nghìn cán bộ ngày càng chuyên nghiệp, tinh nhuệ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thông nghiệp vụ. Từ chỗ chỉ có ba cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài, đến nay mạng lưới các cơ quan đại diện đã mở rộng lên 94 cơ quan, ở khắp các châu lục. 

Vận dụng khéo léo những bài học ngoại giao của thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc và tái thiết đất nước sau chiến tranh, ngoại giao thời kỳ đổi mới đã đúc rút nhiều bài học quý giá. Đó là các bài học về xây dựng, phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác lâu bền với các nước láng giềng, quan tâm xử lý khôn khéo quan hệ với các nước lớn, phối hợp thường xuyên, chặt chẽ giữa các “binh chủng đối ngoại”, phát huy “sức mạnh mềm” của dân tộc để nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của đất nước. 

Thế giới đang chuẩn bị bước sang thập niên thứ ba của thế kỷ 21, với những chuyển biến sâu sắc, mau lẹ và khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là nguyện vọng của các dân tộc trên thế giới, song đang gặp nhiều thách thức, nhất là tình trạng kinh tế thế giới suy thoái, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống như dịch bệnh, môi trường, biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước. Đại dịch Covid-19 khiến biến động cục diện quốc tế bị đẩy nhanh hơn, tác động trực tiếp, nhiều chiều tới môi trường an ninh và phát triển của Việt Nam, với thời cơ và thách thức đan xen.

Trong bối cảnh mới, ngành ngoại giao tiếp tục phát huy vai trò tiên phong tạo dựng môi trường hòa bình, thuận lợi cho phát triển, nâng cao vị thế đất nước. Tiếp tục xây dựng nền ngoại giao hiện đại cả về lực lượng, nội dung và phương thức hoạt động, trên cơ sở kế thừa truyền thống ngoại giao Việt Nam và tư tưởng Ngoại giao Hồ Chí Minh, ngành ngoại giao cần chủ động, tích cực thúc đẩy tinh thần đổi mới, sáng tạo, năng động thích ứng những chuyển biến nhanh của tình hình, để hoàn thành nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Với thế và lực mới của đất nước, phát huy truyền thống vẻ vang và thành tựu to lớn trong 75 năm qua, tiếp bước tinh thần ngoại giao đồng hành cùng đất nước, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngoại giao Việt Nam tiếp tục vững bước tiến lên, viết tiếp những trang sử vàng của nền ngoại giao hiện đại, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.