Đại hội XIII của Đảng tổ chức phiên tham luận tại hội trường

NDO -

Ngày 27-1, buổi sáng ngày làm việc chính thức thứ hai, Đại hội XIII của Đảng tổ chức thảo luận tại hội trường. Thủ trướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc điều hành phiên thảo luận.

Đoàn Chủ tịch tại Đại hội.
Đoàn Chủ tịch tại Đại hội.

12 tham luận bày tỏ đồng tình, nhất trí cao với các dự thảo văn kiện trình Đại hội, các đại biểu đại diện cho các đảng bộ cơ quan trung ương và địa phương phân tích, làm rõ hơn những vấn đề đặt ra trong văn kiện, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng đảng bộ.

IMG_2570-1611736304784.jpg
Sáng 27-1, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam làm việc tại hội trường, thảo luận các văn kiện Đại hội. 

Ngôi nhà chung để phát huy sức mạnh đại đoàn kết

Thay mặt Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam, đồng chí Trần Thanh Mẫn, Bí thư T.Ư Đảng, Chủ tịch Ủy ban T.Ư Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tham luận chủ đề “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng hoạt động của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội”.

Đồng chí nhấn mạnh, đại đoàn kết toàn dân tộc đã tạo nguồn sức mạnh, lập nên những kỳ tích vẻ vang, là điều kiện cơ bản cho sự thành công sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây, cũng như công cuộc đổi mới xây dựng, phát triển đất nước ngày nay. Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về đại đoàn kết toàn dân tộc, để tổ chức Mặt trận thực hiện tốt nhiệm vụ: Tập hợp, xây dựng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

IMG_2564-1611736304660.jpg
Đồng chí Trần Thanh Mẫn, Bí thư T.Ư Đảng, Chủ tịch Ủy ban T.Ư Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trình bày tham luận. 

Các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước do Mặt trận phát động đã hướng vào phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, giảm nghèo bền vững. Thông qua hoạt động giám sát và phản biện xã hội, Mặt trận tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Thực hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, các thành viên của Mặt trận đã xây dựng các mô hình nhân dân tự quản, hỗ trợ nhau trong sản xuất, kinh doanh, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, khuyến học, khuyến tài, đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện. Mặt trận đã trở thành ngôi nhà chung để các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo, đồng bào ta ở nước ngoài phát huy lòng yêu nước, trí tuệ và khả năng của mình, góp phần tích cực xây dựng, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Trước đại dịch Covid-19 và ứng phó với thiên tai, bão lũ vừa qua, truyền thống yêu nước nồng nàn, tình nghĩa đồng bào sâu nặng, sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc một lần nữa được thể hiện đậm nét và mạnh mẽ.

Nêu những bài học kinh nghiệm quý báu về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng chí Trần Thanh Mẫn cho rằng, thời gian tới, hoạt động của Mặt trận tiếp tục hướng mạnh về cơ sở, phát huy tốt hơn vai trò của các tổ chức thành viên, của Ban công tác Mặt trận ở hơn 100 nghìn địa bàn dân cư trong cả nước; tập hợp sức mạnh của 100 triệu đồng bào trong nước và đồng bào ta ở nước ngoài, cùng hiệp lực, quyết tâm, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; lắng nghe ý kiến nhân dân, kịp thời phản ánh, tham mưu đối với cấp ủy, phối hợp chính quyền giải quyết các vấn đề thiết thực liên quan đến đời sống nhân dân; tiếp tục giữ vai trò nòng cốt trong việc thực hiện các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước; đẩy mạnh hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tham gia hiệu quả hơn trong xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí…

Tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân

Nhấn mạnh ý nghĩa, bài học quan trọng, góp phần làm nên những thành tựu to lớn xuyên suốt chiều dài lịch sử là “Lấy dân làm gốc”, phát huy vai trò làm chủ, sức sáng tạo và nguồn lực của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đồng chí Nguyễn Hồng Lĩnh, Ủy viên T.Ư Đảng, Phó Trưởng Ban Dân vận T.Ư  cho biết, những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, hệ thống chính trị đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 25, ngày 3-6-2013 của Ban Chấp hành Trung ương về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”, những nội dung liên quan đến công tác dân vận trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Trên cơ sở đó, công tác dân vận được tăng cường, tiếp tục đổi mới gắn với phát huy quyền làm chủ, quan tâm lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân; xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; gương mẫu của cán bộ, đảng viên; trách nhiệm của hệ thống chính trị góp phần khẳng định cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

MYA_5847-1611736487927.jpg
 Phó Trưởng Ban Dân vận Trung ương Nguyễn Hồng Lĩnh phát biểu tham luận.

Trước đòi hỏi của thực tiễn và mục tiêu phát triển bền vững của Đảng, đất nước, công tác vận động nhân dân càng phải chú trọng và đổi mới mạnh mẽ, xây dựng lòng dân hướng về Đảng, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Theo đó, đồng chí kiến nghị, các cấp uỷ, tổ chức đảng cần tiếp tục đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đường lối, chủ trương công tác dân vận của Đảng theo hướng nâng cao năng lực dự báo, tầm nhìn chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng liên quan đến công tác tuyên truyền, vận động nhân dân phù hợp với tình hình mới.

Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân cần sát với thực tiễn, có tính thuyết phục cao, tạo sự đồng thuận để thực hiện có hiệu quả, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thường xuyên sâu sát, gần gũi nắm bắt tình hình, những vấn đề bức xúc trong nhân dân để có nội dung, hình thức tuyên truyền phù hợp, kịp thời, nhất là những vấn đề nhạy cảm, phức tạp.

Song song nhiệm vụ nâng cao hiệu quả công tác dân vận của cơ quan Nhà nước các cấp, trọng tâm là: Hoàn thiện cơ chế và nâng cao vai trò tham gia của nhân dân trong quá trình quyết định chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những chính sách, pháp luật có liên quan trực tiếp đến cuộc sống của nhân dân, có chính sách sát hợp với đặc điểm vùng miền, đặc thù của đời sống văn hóa người dân mỗi tỉnh nhằm tạo động lực, phát huy lợi thế so sánh và không tạo tâm lý ỷ lại trông chờ vào sự chăm lo, hỗ trợ của Chính phủ, quan tâm đến các đối tượng yếu thế trong xã hội.

Quan tâm lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng và có cơ chế, chính sách chăm lo, động viên đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, Mặt trận và các tổ chức thành viên; kiên quyết không bố trí cán bộ vi phạm kỷ luật, thiếu gương mẫu, đạo đức kém làm công tác dân vận. bên cạnh đó, nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội và góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, phối hợp chính quyền các cấp và các cơ quan quản lý nhà nước ngày càng thực hiện tốt hơn tính minh bạch và thông tin cho nhân dân và xã hội các vấn đề nguồn lực, sử dụng nguồn lực và kiểm soát tính hiệu quả của sử dụng các nguồn lực xã hội...

Đối ngoại Đảng, đối ngoại nhân dân trong bối cảnh mới

Góp phần làm phong phú và sâu sắc thêm nội dung văn kiện về đường lối đối ngoại của Đảng, đồng chí Hoàng Bình Quân, Ủy viên T.Ư Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại T.Ư đã nêu bật những kết quả nhiệm kỳ.

Đại hội XIII của Đảng tổ chức phiên tham luận tại hội trường -0

Đồng chí Hoàng Bình Quân, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương phát biểu tham luận.

Đồng chí khẳng định, trước những diễn biến phức tạp của thế giới, khu vực, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng của ngoại giao nhà nước, đối ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân đã phát huy tính chủ động, tích cực, linh hoạt, sáng tạo, kịp thời xác định những nội dung trọng tâm và khâu đột phá nhằm thích ứng với tình hình và yêu cầu mới.

Đồng chí cho rằng, với những thành tựu quan trọng của sự nghiệp đổi mới, và với uy tín, vị thế quốc tế và cơ đồ chưa từng có, chúng ta đang có nhiều thuận lợi để vượt qua thách thức, nắm bắt cơ hội mang lại. Trên tinh thần đó, đối ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân hơn bao giờ hết tự tin tiếp tục đổi mới tư duy, chủ động; sáng tạo, linh hoạt, mạnh dạn đột phá, thích ứng nhanh chóng với tình hình, tranh thủ tốt nhất các cơ hội, hóa giải hiệu quả những thách thức; phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, nhuần nhuyễn với ngoại giao nhà nước, để bảo đảm tối cao lợi ích quốc gia dân tộc. Trong đó, đối ngoại Đảng phải phát huy mạnh mẽ vai trò tham mưu chiến lược trong hoạch định và triển khai chủ trương, đường lối đối ngoại; phối hợp chặt chẽ với các kênh đối ngoại xử lý hiệu quả các vấn đề đối ngoại hệ trọng của đất nước, không để rơi vào tình thế bị động, bất ngờ. 

Đối ngoại Đảng phải tiếp tục nỗ lực để xứng đáng là một kênh tham mưu chiến lược vững chắc, chất lượng và đáng tin cậy của Trung ương Đảng; không ngừng mở rộng và phát triển về chiều sâu các mối quan hệ đối ngoại của Đảng, tăng cường sự tin cậy, tạo nền tảng chính trị vững chắc cho quan hệ song phương. Đặc biệt, cần đưa quan hệ với các đảng cầm quyền ở các nước XHCN và láng giềng chung biên giới vào chiều sâu, ổn định, bền vững, gia tăng lòng tin, giữ vai trò định hướng chiến lược cho quan hệ song phương; tiếp tục phát huy vai trò của đối ngoại Đảng để đóng góp nhiều hơn nữa, hiệu quả hơn nữa, cho công tác xây dựng đảng; phát huy cao độ tinh thần “chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả”, coi trọng mục tiêu chính trị của đối ngoại nhân dân...

Phát huy vai trò các lực lượng vũ trang trong thực hiện nhiệm vụ an ninh - quốc phòng

Tiếp tục đổi mới toàn diện, xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh, phát huy vai trò nòng cốt, giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của lực lượng Công an nhân dân, được đồng chí Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Đảng ủy Công an T.Ư, Bộ trưởng Công an, nhấn mạnh tại phiên thảo luận.

IMG_2566-1611736305132.jpg
Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ trưởng Công an trình bày tham luận. 

Theo đồng chí, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp; bên cạnh những thuận lợi cơ bản, chúng ta cũng phải đối mặt với những khó khăn, thách thức rất lớn. Nhưng dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với Quân đội nhân dân, các bộ, ban, ngành, địa phương, sự ủng hộ, giúp đỡ có hiệu quả của các tầng lớp nhân dân; ngay từ đầu nhiệm kỳ Đảng bộ Công an Trung ương đã lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng Công an nhân dân triển khai toàn diện các mặt công tác, quyết liệt đổi mới, cơ cấu lại tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Trong phòng, chống đại dịch Covid -19 vừa qua, lực lượng Công an nhân dân đã phát huy vai trò nòng cốt là một trong ba lực lượng trọng yếu, tuyến đầu trên mặt trận phòng, chống dịch.

Dự báo nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vừa có nhiều thuận lợi rất cơ bản, nhưng bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn tồn tại và có mặt còn gay gắt hơn, theo đồng chí, để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự, Đảng bộ Công an đề ra nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm mà lực lượng Công an nhân dân tập trung thực hiện trong những năm tới. Trong đó, chủ động phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng, nhất là Quân đội nhân dân giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với công tác bảo đảm ANTT và xây dựng lực lượng Công an nhân dân. Huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ an ninh chính trị, an ninh con người, trật tự an toàn xã hội và văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an ninh, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đây là mục tiêu, phương hướng bao trùm và quan trọng hàng đầu, song song với tiếp tục tổ chức thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết, Chỉ thị, Kết luận của Đảng về an ninh, trật tự…

IMG_2568-1611736560112.jpg
Thượng tướng Phan Văn Giang, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Quốc phòng trình bày tham luận. 

Làm rõ kết quả và đề xuất một số nội dung chủ yếu về “Củng cố, tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân, tiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, đồng chí Phan Văn Giang, Ủy viên T.Ư Đảng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt nam, Thứ trưởng Quốc phòng đã nêu bật những kết quả cùng những kinh nghiệm từ thực tiễn thực hiện chủ trương xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân.

Theo đồng chí Phan Văn Giang, đất nước ta đứng trước những thời cơ, vận hội mới nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức, nhất là tình hình Biển Đông, ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19, các thách thức an ninh phi truyền thống và sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Để triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tăng cường củng cố quốc phòng, xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới, Đảng bộ Quân đội đề xuất một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cần tập trung thực hiện trong nhiệm kỳ 2021-2026.

Theo đó, tập trung lãnh đạo Quân đội, các lực lượng chức năng tăng cường cảnh giác, nâng cao năng lực dự báo, tham mưu chiến lược với Đảng, Nhà nước về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tiếp tục xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân vững mạnh; trọng tâm là khơi dậy lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc và trách nhiệm của toàn dân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Phát huy tốt vai trò của Quân đội, Công an và các lực lượng trong giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 28-NQ/TW, Kết luận số 64-KL/TW của Bộ Chính trị, nâng cao chất lượng xây dựng và hoạt động khu vực phòng thủ các cấp gắn kết chặt chẽ với thế trận phòng thủ của các quân khu và phạm vi cả nước; tập trung lãnh đạo xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng, tạo tiền đề vững chắc để phấn đấu từ năm 2030 xây dựng Quân đội hiện đại. Thường xuyên giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội; chăm lo xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch vững mạnh, tiêu biểu, mẫu mực; xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, bảo đảm có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu cao, phát huy tốt phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Thực hiện hiệu quả công tác cải cách tư pháp

Thực hiện có hiệu quả công tác cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đồng chí Lê Hồng Quang, Ủy viên T.Ư Đảng, Phó Chánh án Thường trực Toà án nhân dân tối cao nhắc lại lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ Tư pháp là “phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”. Trải qua 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã tổng kết và xác định, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Trong đó, xây dựng nền tư pháp văn minh, tiến bộ, góp phần hiện thực hoá Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên thực tế là nội dung quan trọng, là nhiệm vụ chiến lược của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.

IMG_2563-1611736636823.jpg
 Đồng chí Lê Hồng Quang, Bí thư Đảng ủy, Phó Bí thư Ban Cán sự đảng, Phó Chánh án thường trực Tòa án nhân dân tối cao trình bày tham luận.

Từ thực tiễn quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; phát huy tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tư pháp, đặt ra yêu cầu cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp nhằm thích ứng tốt hơn với yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết trong tình hình mới. Theo đó, Ban Cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao đề xuất một số quan điểm, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ cải cách tư pháp giai đoạn sau năm 2020.

Trong đó, kiên định, nhất quán nguyên tắc Đảng lãnh đạo toàn diện, thống nhất và trực tiếp đối với cơ quan tư pháp, hoạt động tư pháp để bảo đảm thực hiện hiệu quả trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; xác định cải cách tư pháp là động lực quan trọng để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tư pháp và công tác phòng chống tham nhũng do Đảng lãnh đạo; là nhân tố quan trọng góp phần bảo vệ, giữ vững, phát huy thành tựu phát triển của đất nước thời gian qua; đẩy nhanh việc hoàn thiện các thiết chế của Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hoạt động tư pháp phải đặt người dân vào vị trí trung tâm, lấy tinh thần phục vụ nhân dân làm tôn chỉ, mục đích hoạt động; hoàn thiện thể chế, phát huy dân chủ, bảo đảm các điều kiện về pháp lý và thực tế để người dân thực hiện đầy đủ, toàn diện các quyền của mình trong tố tụng; bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dân thông qua hoạt động tư pháp; phát huy vai trò và hoàn thiện cơ chế giám sát đặc thù của cơ quan dân cử, của công luận và của nhân dân đối với hoạt động tư pháp…

Xây dựng và hoàn thiện nền tài chính quốc gia theo hướng hiện đại

Một trong những khía cạnh quan trọng thể hiện sự thịnh vượng, phồn vinh của một quốc gia là sức mạnh của nền tài chính quốc gia; bao gồm cả tài chính Nhà nước, tài chính doanh nghiệp, tổ chức và tài chính dân cư; là nền tảng bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng phát triển kinh tế - xã hội.

Theo đồng chí Đinh Tiến Dũng, Ủy viên T.Ư Đảng, Bộ trưởng Tài chính, với những bước phát triển tương đối toàn diện ở tất cả các khâu, các lĩnh vực, nền tài chính quốc gia đã có những đóng góp quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội thời gian qua. Đặc biệt, kết quả cơ cấu lại ngân sách nhà nước và nợ công trong giai đoạn 2016-2020 đã củng cố tiềm lực nền tài chính quốc gia theo hướng an toàn, bền vững, đồng thời tạo dư địa huy động thêm nguồn lực để phòng, chống đại dịch Covid-19, hỗ trợ nền kinh tế tránh được suy thoái, đưa Việt Nam trở thành một trong số rất ít nền kinh tế có mức tăng trưởng dương trong năm 2020, tạo nền tảng quan trọng cho giai đoạn tới.

IMG_2562-1611736694984.jpg
 Đồng chí Đinh Tiến Dũng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Ban Cán sự đảng, Bộ trưởng Tài chính trình bày tham luận.

Về quan điểm, định hướng, mục tiêu Chiến lược 10 năm 2021-2030 và phương hướng, nhiệm vụ năm năm 2021-2025, ngành Tài chính xác định nhiệm vụ giai đoạn tới tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế tài chính, cơ cấu lại NSNN, nợ công; đẩy mạnh đổi mới khu vực sự nghiệp công lập theo Nghị quyết T.Ư 6 khóa XII; hoàn thiện việc sắp xếp khối DNNN, đổi mới quản trị theo đúng Nghị quyết T.Ư 5, khóa XII; tiếp tục sắp xếp, tinh gọn bộ máy Nhà nước, giảm biên chế đi cùng với cải cách, hiện đại hoá công tác quản lý; cải thiện mạnh mẽ hiệu lực, hiệu quả bộ máy hành chính, sự nghiệp; siết chặt kỷ luật, kỷ cương tài chính-ngân sách; củng cố dư địa tài khóa, nâng cao khả năng chống chịu của nền tài chính quốc gia.

Tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo

Năm 2013, Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo đã đi vào sự nghiệp giáo dục, đào tạo trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn và nguồn lực còn hạn hẹp. Song, với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự phối hợp có hiệu quả của các bộ, ngành và địa phương, đặc biệt là sự nỗ lực của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục các cấp, sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước ta đã tạo được chuyển biến căn bản về chất lượng, hiệu quả, được các tổ chức quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Nêu bật kết quả sau bảy năm thực hiện Nghị quyết, đồng thời phân tích rõ hạn chế, yếu kém cần khắc phục, đồng chí Phùng Xuân Nhạ, Ủy viên T.Ư Đảng, Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo nêu năm nhóm nhiệm vụ, giải pháp phối hợp các bộ, ngành và địa phương, nhằm đạt những mục tiêu trong giai đoạn 2021-2025. Trong đó, giải pháp đột phá là đổi mới cơ chế quản lý nhà nước và quản trị nhà trường. Theo đồng chí, giải pháp này không cần nhiều nguồn lực nhưng tháo gỡ được những nút thắt, rào cản đổi mới giáo dục hiện nay. Tập trung coi trọng quản lý chất lượng, hiệu quả quản trị nhà trường, gắn trách nhiệm quản lý chuyên môn với quản trị nhân sự và tài chính; hoàn thiện cơ chế để cơ quan quản lý giáo dục được tham gia quyết định trong quản lý nhân sự và phân bổ, sử dụng nguồn tài chính dành cho giáo dục của địa phương...

DSC_0499-1611736758545.jpg
 Đồng chí Phùng Xuân Nhạ, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo phát biểu tham luận.

Song song nhiệm vụ phát triển, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, đây là nhân tố quyết định thành công sự nghiệp đổi mới giáo dục. Thời gian qua, đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục các cấp đã được kiện toàn, nâng cao chất lượng một bước. Tuy nhiên, số lượng, cơ cấu, chất lượng đội ngũ còn bấp cập, một bộ phận không nhỏ chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới, cần tiếp tục phát triển, nâng cao chất lượng trong thời gian tới. Tiếp tục rà soát, quy hoạch mạng lưới trường, lớp bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục mầm non, phổ thông; khắc phục tình trạng nhiều điểm trường lẻ, trường học có quy mô nhỏ, chất lượng giáo dục chưa cao để tập trung đầu tư nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục. Bên cạnh đó, cần đẩy nhanh chuyển đổi số trong giáo dục, góp phần rút ngắn quá trình đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, nhất là đối với vùng sâu, vùng xa và đóng góp tích cực vào quá trình chuyển đổi số quốc gia.

Tăng cường công tác truyền thông các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về đổi mới giáo dục; các chỉ đạo, điều hành của Bộ GD và ĐT và các địa phương để nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận của người dân. 

Tạo động lực phát triển TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh  

Theo đồng chí Nguyễn Văn Phong, Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Đảng bộ TP Hà Nội đã triển khai kịp thời, thực hiện có hiệu quả tám chương trình công tác lớn toàn khóa, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện năm nhiệm vụ trọng tâm, ba khâu đột phá. Kinh tế Thủ đô tiếp tục được cơ cấu lại, nhất là trên các lĩnh vực trọng tâm, tăng trưởng khá, cao hơn bình quân chung cả nước; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng hiện đại. Hà Nội đóng góp hơn 16% GDP, 18,5% thu ngân sách, 20% thu nội địa và 8,6% kim ngạch xuất, nhập khẩu của cả nước, ngày càng xứng đáng với vai trò là trung tâm lớn về kinh tế và giao dịch quốc tế, một động lực phát triển của vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước.

Đại hội XIII của Đảng tổ chức phiên tham luận tại hội trường -0
Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội Nguyễn Văn Phong phát biểu tham luận. 

Nhận thức sâu sắc về điều đó cùng với tầm nhìn chiến lược rộng mở và quyết tâm chính trị cao, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thủ đô xác định mục tiêu phấn đấu đến năm 2025, xây dựng Đảng bộ thành phố có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao và hệ thống chính trị - xã hội trong sạch, vững mạnh, tiêu biểu; phát triển nhanh và bền vững Thủ đô theo hướng đô thị xanh, thành phố thông minh, hiện đại. Đến năm 2030, Hà Nội trở thành thành phố “xanh - thông minh - hiện đại”; phát triển năng động, hiệu quả, có sức cạnh tranh khu vực và quốc tế; năm 2045, Hà Nội có chất lượng cuộc sống cao; kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển toàn diện, bền vững; là thành phố kết nối toàn cầu, có sức cạnh tranh quốc tế, GRDP/người đạt trên 36.000 USD.

Tại trung tâm kinh tế năng động nhất cả nước, Đảng bộ TP Hồ Chí Minh xác định tầm quan trọng của việc phát triển kinh tế tri thức trong định hướng, chiến lược phát triển. Trên cơ sở hình thành những nền tảng của kinh tế tri thức, bao gồm đội ngũ trí thức, đô thị thông minh, khu công nghệ cao, trung tâm khởi nghiệp sáng tạo, các tập đoàn lớn về công nghệ, các trung tâm nghiên cứu phát triển, hạ tầng công nghệ thông tin trên nền tảng mạng 5G, TP Hồ Chí Minh từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng hàm lượng tri thức, tập trung phát triển các ngành công nghệ cao, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.

MYA_5875-1611736962913.jpg
Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh Nguyễn Thành Phong trình bày tham luận. 

Theo đồng chí Nguyễn Thành Phong, Ủy viên T.Ư Đảng, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh, Nghị quyết Đại hội IX và nhiều văn bản chính thức của Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định vị trí, vai trò kinh tế tri thức trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, rất coi trọng vận dụng các yếu tố của kinh tế tri thức, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa mạnh mẽ và đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Trên tinh thần đó, Thành phố đề xuất bảy giải pháp trọng tâm phát triển kinh tế tri thức trong thời gian tới.             

Phát triển nông nghiệp đa dạng ở Bắc Giang, Lâm Đồng

Khẳng định những đóng góp vào thành tích chung của đất nước có vai trò hết sức quan trọng của ngành nông nghiệp, đồng chí Dương Văn Thái, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Bắc Giang, nêu thực tế, Đảng bộ tỉnh Bắc Giang luôn vận dụng linh hoạt, sáng tạo chỉ đạo, định hướng của Đảng vào điều kiện thực tiễn tại địa phương tỉnh. Bắc Giang đã phát huy tốt lợi thế đặc thù về điều kiện địa hình đa dạng, khí hậu, thổ nhưỡng thuận lợi của vùng trung du, miền núi, tập trung đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nông nghiệp, ban hành nhiều cơ chế chính sách thúc đẩy phát triển nông nghiệp đa dạng, tập trung vào ba khâu trọng tâm.

DSC_0454-1611737074429.jpg
Đồng chí Dương Văn Thái, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Bắc Giang phát biểu tham luận. 

Trong đó, quy hoạch lại các vùng sản xuất, gắn với đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất. Đến nay, đã quy hoạch, phát triển vùng trồng cây ăn quả tập trung với tổng diện tích trên 50.000 ha, trong đó vùng sản xuất vải thiều tập trung, quy mô trên 28.000 ha, sản lượng 160-190 nghìn tấn/năm, lớn nhất cả nước. Các mô hình chăn nuôi trang trại tập trung, quy mô lớn, chăn nuôi an toàn sinh học ngày càng phát triển; tổng đàn gà hơn 16 triệu con, đàn lợn hơn 1 triệu con (đứng thứ 4 toàn quốc).

Nhờ có những chủ trương, cơ chế sát, đúng thực tiễn; sự quyết liệt, kiên trì, linh hoạt, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển nông nghiệp của Bắc Giang, những năm gần đây không còn nỗi lo "được mùa, mất giá". Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2020-2025 xác định tập trung phát triển toàn diện trên cả ba khu vực kinh tế: Công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, trong đó nông nghiệp giữ vai trò đặc biệt quan trọng, là nền tảng đảm bảo cho phát triển kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân.

Hướng đến xây dựng nền nông nghiệp hiện đại đáp ứng yêu cầu phát triển, tỉnh Bắc Giang báo cáo và đề nghị Trung ương xem xét, sửa Luật Đất đai theo hướng tích tụ, tập trung đất đai với quy mô lớn cho phù hợp với thực tiễn phát triển nông nghiệp hàng hóa hiện nay; tăng cường đàm phán thương mại để mở rộng thị trường xuất khẩu các sản phẩm nông sản.

DSC_0531-1611737149996.jpg
 Đồng chí Trần Đức Quận, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Lâm Đồng phát biểu tham luận.

Khẳng định, nông nghiệp là lĩnh vực nhiều lợi thế, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Lâm Đồng, đồng chí Trần Đức Quận, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Lâm Đồng cho biết, kết nối nông nghiệp với công nghiệp chế biến và xuất khẩu là giải pháp có ý nghĩa chiến lược quan trọng để nông nghiệp Lâm Đồng phát triển bền vững và hội nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Chia sẻ kinh nghiệm của Lâm Đồng, đồng chí cho rằng, đó là hiệu quả từ mô hình “doanh nghiệp là nòng cốt, ứng dụng khoa học công nghệ là điều kiện tiên quyết; xây dựng chuỗi liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm để phát triển bền vững; xây dựng thương hiệu để bảo hộ quyền lợi người sản xuất và tạo niềm tin cho người tiêu dùng; nông dân đóng vai trò chủ thể”.

Việc ứng dụng các công nghệ tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp đã làm thay đổi tư duy, nâng cao trình độ sản xuất của người nông dân kể cả ở vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; đã xuất hiện “nông dân thế hệ mới” dám nghĩ dám làm, mạnh dạn ứng dụng khoa học công nghệ, bỏ vốn đầu tư, chủ động khai thác thị trường, liên kết sản xuất tạo ra chuỗi giá trị tham gia có hiệu quả vào thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước.

Bên cạnh đó, tỉnh đã xây dựng và triển khai mạnh mẽ Đề án phát triển nông nghiệp theo hướng tiếp cận đa ngành, xây dựng thành công các chỉ dẫn địa lý cũng như thương hiệu nông sản Lâm Đồng, với nhãn hiệu “Đà Lạt kết tinh kỳ diệu từ đất lành” đây là định hướng quan trọng mở ra cho nông sản của tỉnh tiếp cận các thị trường trong nước và tận dụng cơ hội Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và các nước để đẩy mạnh xuất khẩu.

Để nâng cao giá trị nông sản, việc phát triển công nghiệp chế biến được tỉnh xác định là một trong những yếu tố quan trọng, góp phần thúc đẩy phát triển ngành nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, tạo nhiều việc làm, đóng góp cả về lợi ích kinh tế và xã hội; đã hình thành các trung tâm bảo quản, chế biến sau thu hoạch, các khu, cụm công nghiệp thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực chế biến nông sản.

Buổi chiều, các đại biểu tiếp tục tham luận tại Hội trường.