Vang mãi khúc ca toàn thắng

Bài 1: Cuộc đối đầu lịch sử

NDO -

NDĐT - Ngày 30-4 năm nay chúng ta kỷ niệm 45 năm ngày toàn thắng, giải phóng miền nam, thống nhất đất nước - mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc. Đây cũng là dịp để chúng ta nhìn lại chặng đường 21 năm đấu tranh nhiều gian khổ, hy sinh nhưng vô cùng vẻ vang của toàn thể nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh đã vượt qua bao thử thách cam go để đi đến thắng lợi cuối cùng. Niềm tự hào và những kinh nghiệm từ cuộc kháng chiến vĩ đại còn tiếp tục được chúng ta kế thừa và phát huy trong những chặng đường mới.

Cầu Hiền Lương, sông Bến Hải (Quảng Trị) - giới tuyến tạm thời chia cắt hai miền sau Hiệp định Genève. (Ảnh: Vương Anh)
Cầu Hiền Lương, sông Bến Hải (Quảng Trị) - giới tuyến tạm thời chia cắt hai miền sau Hiệp định Genève. (Ảnh: Vương Anh)

Từ trước và sau khi Hiệp định Genève được ký kết (ngày 20-7-1954), Mỹ đã dần dần thay thế Pháp để thực hiện âm mưu biến miền nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ, chia cắt lâu dài Việt Nam và xây dựng miền nam Việt Nam thành tiền đồn chống cộng tại Đông - Nam Á.

Thực hiện âm mưu này, Mỹ đã can thiệp ngày càng sâu, rồi trực tiếp tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam. Tuy nhiên, các chiến lược chiến tranh của Mỹ thực hiện ở Việt Nam đều thất bại đã buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán và ký Hiệp định Paris (ngày 27-1-1973). Bản Hiệp định này đã chấm dứt sự hiện diện trực tiếp của lực lượng quân sự Mỹ tại miền nam Việt Nam và là tiền đề dẫn tới sự sụp đổ hoàn toàn của chính quyền Sài Gòn vào ngày 30-4-1975.

Âm mưu phá hoại Hiệp định Genève và chia cắt Việt Nam lâu dài

Âm mưu của Mỹ được diễn đạt một cách “mỹ miều”: “xây con đê ở miền nam Việt Nam ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản tràn xuống Đông - Nam Á”. Để thực hiện điều đó, Mỹ sử dụng chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm do Mỹ dựng lên.

Ngày 7-7-1954, Mỹ đưa Ngô Đình Diệm về làm Thủ tướng miền nam Việt Nam. Chính quyền Ngô Đình Diệm đã trắng trợn xé bỏ Hiệp định Genève. Ngày 17-7-1955, Ngô Đình Diệm tuyên bố: Không hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Và ngày 23-10-1955, Ngô Đình Diệm tổ chức “Trưng cầu dân ý”, phế truất Bảo Đại và lên làm Tổng thống Việt Nam cộng hòa.

Được sự trợ giúp mạnh mẽ của Mỹ, Ngô Đình Diệm đẩy mạnh việc thanh toán những phe phái khác rồi tập trung mọi cố gắng để “tiêu diệt cộng sản”, với những đợt “tố cộng”, “dồn dân”, những chiến dịch quy mô lớn, kéo dài để khủng bố, tàn sát những người kháng chiến. Cả miền nam chìm trong không khí khủng bố, tang tóc. Hàng chục vạn cán bộ, đảng viên, quần chúng cách mạng bị giam cầm, đày ải, giết hại. Đây là cuộc chiến tranh đơn phương tàn bạo chống lại nhân dân miền nam. Cách mạng miền nam chịu nhiều tổn thất, khó khăn to lớn. Tuy nhiên, bạo lực không thể dập tắt được tinh thần yêu nước, không dập tắt được ý chí đấu tranh vì độc lập tự do và quyết tâm thống nhất đất nước của nhân dân cả hai miền nam - bắc Việt Nam. Cuộc đấu tranh của nhân dân miền nam đòi thực hiện Hiệp định Genève, chống lại chính sách chia cắt và đàn áp của chính quyền tay sai Mỹ ngày càng dâng cao buộc Mỹ phải gia tăng mức độ can thiệp để giữ cho những “con bài” của mình không sụp đổ.

Cả dân tộc Việt Nam đứng trước thử thách lịch sử phải đối đầu với lực lượng xâm lược hung bạo nhất, có tiềm lực mạnh nhất để bảo vệ những giá trị độc lập dân tộc của mình.

Những chiến lược chiến tranh lần lượt thất bại

Trong suốt quá trình can thiệp và xâm lược Việt Nam, nhiều chiến lược chiến tranh của Mỹ được thực hiện trên chiến trường và lần lượt thất bại. Khi cuộc chiến đơn phương khủng bố, tàn sát không tiêu diệt hết được cán bộ, cơ sở cách mạng và phong trào Đồng khởi lan rộng khắp miền nam, để cứu nguy cho chế độ tay sai, Mỹ đưa ra kế hoạch Staley - Taylor với mục tiêu “bình định miền nam trong 18 tháng”. Hơn 16.000 “ấp chiến lược” được xây dựng nhằm tách lực lượng cách mạng khỏi nhân dân để “tát nước bắt cá”. Mỹ đổ tiền và vũ khí cho chính quyền Sài Gòn gấp rút xây dựng lực lượng quân sự để thực hiện “Chiến tranh đặc biệt” với công thức: Quân đội Sài Gòn + Vũ khí Mỹ + Cố vấn Mỹ + Viện trợ Mỹ = Thắng lợi.

Bài 1: Cuộc đối đầu lịch sử ảnh 1

Một trận càn bằng chiến thuật “trực thăng vận” - (Ảnh: Horst Faas, AP)

Với vũ khí trang bị và sự chỉ huy của cố vấn Mỹ, trong những năm 1960-1963 đã có gần 4.000 cuộc hành quân càn quét “bủa lưới - phóng lao” với “trực thăng vận” và “thiết xa vận” để tiêu diệt các đơn vị vũ trang cách mạng. Nhưng chiến thuật này từng bước bị vô hiệu hóa, đánh dấu từ chiến thắng Ấp Bắc vang dội (ngày 2-1-1963). Ở vùng nông thôn, “Ấp chiến lược” bị phá từng mảng lớn. Phong trào đấu tranh chính trị ở đô thị dâng cao làm lung lay chính quyền của Ngô Đình Diệm. Ngày 1-11-1963, Mỹ buộc phải “thay ngựa giữa dòng”. Cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm lại đưa chế độ tay sai của Mỹ vào “vòng xoáy” khủng hoảng mới và một giai đoạn bất ổn chính trị kéo dài, đứng trước nguy cơ rối loạn và sụp đổ.

Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” thất bại, nhưng với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, Mỹ tiếp tục leo thang can thiệp. Ngày 4-8-1964, Mỹ gây ra “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” để lấy cớ đưa quân Mỹ vào trực tiếp tham chiến trên chiến trường, thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền nam và tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ở miền bắc Việt Nam.

Trong những năm 1965-1968, cường độ chiến tranh và số quân Mỹ tham chiến liên tục được đẩy lên cao trong cố gắng làm chủ tình hình của Mỹ. Trên chiến trường miền nam, quân Mỹ tiến hành nhiều cuộc hành quân “tìm và diệt” quân chủ lực đối phương trong hai mùa khô năm 1965-1966 và năm 1966-1967 bằng lực lượng lớn quân đội và phương tiện chiến tranh([i]) đồng thời tăng cường giúp sức chính quyền Sài Gòn “bình định miền nam”. Không quân và hải quân Mỹ gây ra cuộc chiến tranh phá hoại tàn khốc, tấn công tất cả các mục tiêu kinh tế và quốc phòng ở miền bắc Việt Nam([ii]).

Tuy nhiên các mục tiêu của Mỹ còn chưa thực hiện được thì cuộc tấn công bất ngờ Tết Mậu Thân 1968 đã làm đảo lộn chiến lược chiến tranh và kéo theo rất nhiều sự rối loạn trên các mặt đời sống chính trị - xã hội Mỹ. Cuộc tấn công Mậu Thân 1968 đã bẻ gãy ý chí duy trì chiến tranh của giới lãnh đạo Mỹ. Trong cơn khủng hoảng về chiến lược chiến tranh, về chính sách đối ngoại, ngày 31-3-1968, Tổng thống Mỹ Lindon. B. Johnson tuyên bố chấm dứt ném bom miền bắc Việt Nam từ phía bắc vĩ tuyến 20. Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán tại Paris.

Bài 1: Cuộc đối đầu lịch sử ảnh 2

Các em học sinh vẫn đến lớp ở nơi sơ tán với mũ rơm và nụ cười rạng rỡ (năm 1967) - (Ảnh: Mầu Hoàng Thiết - TTXVN)

Từ năm 1969, Tổng thống Richard Nixon từng bước “xuống thang” chiến tranh, “phi Mỹ hóa chiến tranh” rồi thực thi một chiến lược chiến tranh mới - “Việt Nam hóa chiến tranh”: Dùng người Việt đánh người Việt bằng viện trợ và vũ khí của Mỹ; kết hợp chiến tranh hủy diệt, chiến tranh giành dân và chiến tranh bóp nghẹt để khống chế phần lớn miền nam, tiến tới bao vây cô lập, làm cho cuộc chiến tranh cách mạng bị “tàn lụi”. Tuy “Học thuyết Nixon” có làm “thay đổi màu da xác chết” trên chiến trường nhưng những mục tiêu chiến lược của Mỹ ở miền nam Việt Nam không thay đổi.

Dù cố “chơi ván bài quyết định” bằng chiến dịch Linebacker II, “Pháo đài bay” B52 và cuộc tấn công tàn bạo trong dịp Giáng sinh năm 1972 của Nixon đã không lật ngược được thế cờ. Trận Điện Biên Phủ trên không ở Hà Nội đã quyết định kết cục của cuộc đàm phán ở Paris. Ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký sau hơn bốn năm đấu tranh ngoại giao và sau khi Mỹ chịu thua trên bầu trời Hà Nội. Bản Hiệp định đã chính thức chấm dứt sự hiện diện của các lực lượng quân sự Mỹ tại miền nam Việt Nam. Điều này dẫn đến hệ quả trực tiếp là sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn chỉ hơn hai năm sau đó trên thế suy yếu về mọi mặt và thế thắng lợi tất yếu của nhân dân Việt Nam.

Bài 1: Cuộc đối đầu lịch sử ảnh 3

Xác máy bay Mỹ trên đồng lúa ở ngoại thành Hà Nội (tháng 7-1972) - (Ảnh: Đoàn Công Tính)

Những lời thú nhận

Trong cuốn sách Không hòa bình, chẳng danh dự. Nixon, Kissinger và sự phản bội ở Việt Nam([iii]), tác giả Larry Berman([iv]) đã công bố Phụ lục B: Bản ghi nhớ (đánh số ký hiệu 3173-X có dòng chữ Bí mật/Nhạy cảm/Trình riêng ở phía trên) của ông Henry Kissinger - Cố vấn An ninh quốc gia (từ năm 1969) và Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ (từ năm 1973) - gửi Tổng thống Gerald. R. Ford về: Bài học Việt Nam. Trong đó ông H. Kissinger thừa nhận những sai lầm về quân sự và ngoại giao đã dẫn đến thất bại của Mỹ (xin trích):

“… Cả hai bên đều gặp khó khăn trong việc tìm kiếm chiến thuật thích hợp cho mỗi loại chiến tranh. Nhưng chúng ta và Nam Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong vấn đề này hơn là phe bên kia.

... Mỉa mai thay, chúng ta chuẩn bị cho Nam Việt Nam loại chiến tranh quy ước sau năm 1954 (vì dự đoán sẽ có một cuộc tấn công kiểu Triều Tiên), và họ phải đương đầu với một cuộc chiến tranh chính trị; họ đã tự chuẩn bị cho loại chiến tranh chính trị sau năm 1973 để rồi phải đương đầu với một cuộc xâm lăng của chủ lực quân 20 năm sau khi loại chiến tranh đó được dự đoán.

... Nền ngoại giao của chúng ta cũng bị thiệt hại trong tiến trình đó, và chúng ta cần phải có một thời gian mới phục hồi được.

... Cuối cùng, chúng ta lại phải thương thuyết với chính chúng ta, liên tục làm hết nhượng bộ này đến nhượng bộ khác trong khi Bắc Việt không thay đổi một chút nào mục tiêu ngoại giao của họ và thay đổi rất ít trong lập trường ngoại giao của họ”([v]).

Những kết luận này của ông Henry Kissinger cũng có thể tóm tắt cho những sai lầm về chiến lược mà Mỹ đã mắc phải ở Việt Nam. Nhưng trước hết và trên hết đó là thất bại của các thế lực và âm mưu phi nghĩa trước cuộc đấu tranh chính nghĩa để bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam. Dân tộc Việt Nam đã ở tuyến đầu trong cuộc đấu tranh với thế lực chiến tranh hung hãn nhất hành tinh và đã giành chiến thắng trong cuộc đối đầu lịch sử đó.


[i] Lực lượng Mỹ trên chiến trường Việt Nam thời điểm cao nhất lên tới 11 sư đoàn và 11 trung đoàn với hơn 540.000 quân - Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị - Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975 Thắng lợi và bài học - Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr. 504.

[ii] Bình quân mỗi km² đất miền bắc phải đựng chịu sáu tấn bom, mỗi người dân miền bắc phải chịu đựng 45,5 kg bom Mỹ - Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị - Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975 Thắng lợi và bài học - Sđd, tr. 516.

[iii] Bản tiếng Anh của Nxb Free Press, Simon&Schuster Group, New York, 2001, bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Mạnh Hùng, Việt Tide xuất bản 2003.

[iv] Larry Berman là GS Chính trị học kiêm Giám đốc Trung tâm Washington của Đại học California. Ông cũng là tác giả cuốn sách nổi tiếng Điệp viên hoàn hảo (Perfect spy) viết về nhà tình báo nổi danh Phạm Xuân Ẩn.

[v] Larry Berman (2003) - Không hòa bình, chẳng danh dự. Nixon, Kissinger và sự phản bội ở Việt Nam - Tài liệu đã dẫn (Bản dịch tiếng Việt), tr. 371 - 372).