Từ cúm đến Sars-CoV-2:

Những nữ khoa học chinh phục các loại virus

NDO -

NDĐT - Giải thưởng Kovalevskaia năm 2019 vinh danh tập thể khoa học nữ Phòng Thí nghiệm Cúm, Khoa Virus, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung uơng, Bộ Y tế. Từ cúm đến Sars-CoV-2, những nữ khoa học của Viện đã thật sự là những chiến sĩ tuyến đầu trong nghiên cứu, phân lập được virus, cung cấp những thông tin khoa học căn bản cho thế giới.

Tập thể các nhà khoa học của Phòng Thí nghiệm Cúm, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương.
Tập thể các nhà khoa học của Phòng Thí nghiệm Cúm, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương.

“Quả ngọt” sau 15 năm cống hiến

Xác định cơ hội và thách thức trong nghiên cứu về tác nhân virus gây viêm đường hô hấp cấp, đặc biệt là virus cúm tại Việt Nam vẫn còn rất nhiều trong tương lai, các nhà khoa học nữ của Phòng Thí nghiệm Cúm, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương (VSDTTƯ), đứng đầu là PGS, TS Lê Thị Quỳnh Mai đã thành công trong việc kết nối, hệ thống những thành tựu nghiên cứu tại Việt Nam và phát triển lý thuyết khoa học, đi từ virus cúm tới chế phẩm vaccine cúm mùa và vaccine cho đại dịch cúm.

PGS, TS Lê Thị Quỳnh Mai, Phó Viện trưởng Viện VSDTTƯ cho biết, Phòng thí nghiệm Cúm tiền thân là Phòng Thí nghiệm Các virus Hô hấp, Khoa Virus, Viện VSDTTƯ được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) công nhận là Trung tâm Cúm quốc gia vào tháng 3-2000.

Với chức năng, nhiệm vụ giám sát, phát hiện, nghiên cứu các tác nhân virus gây viêm đường hô hấp cấp, Phòng Thí nghiệm là đơn vị đầu tiên thu thập, phân lập và xác định căn nguyên gây dịch viêm đường hô hấp cấp tính nặng tại Việt Nam tháng 3-2003 là tác nhân virus lạ. Nhờ đó, đã góp phần khống chế dịch viêm đường hô hấp cấp nguy hiểm (SARS) năm 2003, phát triển quy trình thực hành an toàn sinh học tại Việt Nam.

“Năm 2003, khi dịch SARS xảy ra, Việt Nam là nước đầu tiên thông báo với Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) về căn bệnh mới với triệu chứng viêm phổi không điển hình, tiến triển nhanh và lây truyền mạnh với tỷ lệ tử vong cao. Các khái niệm và thực hành về an toàn sinh học lần đầu tiên được cập nhật tại Việt Nam. Các quy trình đánh giá nguy cơ và quy trình thực hành an toàn sinh học trong phòng thí nghiệm ở các mức độ khác nhau do Phòng Thí nghiệm của chúng tôi phát triển đã được Bộ Y tế phê duyệt và phổ biến trong toàn bộ hệ thống phòng thí nghiệm trên phạm vi toàn quốc vào đầu năm 2005”, PGS Quỳnh Mai nói.

Sau thành công này, Phòng Thí nghiệm được xây dựng trở thành Trung tâm Chuẩn thức quốc gia, đầu ngành về nghiên cứu virus cúm, thành viên trong mạng lưới cúm toàn cầu (GISRS).

Những nữ khoa học chinh phục các loại virus ảnh 1

Phòng Thí nghiệm Cúm hướng đến mục tiêu chung giảm gánh nặng bệnh tật của dịch bệnh cúm mùa và giảm nguy cơ, ảnh hưởng của đại dịch cúm nhằm bảo vệ sức khoẻ cộng đồng tại Việt Nam cũng như các quốc gia khác trên thế giới.

PGS, TS Lê Thị Quỳnh Mai chia sẻ, với bài học kinh nghiệm từ công tác phòng chống dịch SARS năm 2003, nhóm nghiên cứu tiếp tục trực tiếp xét nghiệm xác định trường nhiễm virus cúm gia cầm A/H5N1 trên người đầu tiên tại Việt Nam vào những ngày cuối tháng 12-2003. Những kết quả và các vật liệu nghiên cứu này đã được Phòng Thí nghiệm chia sẻ cho các đơn vị nghiên cứu quốc tế. Sau đó, virus cúm A/H5N1 do Phòng Thí nghiệm phân lập được đã được WHO lựa chọn là virus dự tuyển để phát triển vaccine phòng chống cúm A/H5N1 (A/Vietnam/1194/2004 và A/Vietnam/1203/2004).

Để chủ động trong công tác phòng chống dịch, nhóm nghiên cứu cũng đã tham gia tạo chủng virus cúm A/H5N1 trong sản xuất vaccine cúm tại Việt Nam. PGS, TS Lê Thị Quỳnh Mai cùng nhóm nghiên cứu đã tham gia tạo chủng virus rgA/H5N1 không độc lực bằng phương pháp di truyền đảo ngược, thiết lập được hệ chủng gốc và chủng sản xuất vaccine cúm A/H5N1 với đầy đủ các tiêu chí kỹ thuật theo quy định của WHO. “Các kết quả nghiên cứu cho thấy, vaccine cúm A/H1N1/2009 đại dịch đáp ứng đầy đủ tính an toàn, hiệu lực và có giá thành hợp lý”, Phó Viện trưởng nói.

Ghi nhận cống hiến đóng góp của phòng Thí nghiệm trong khống chế dịch SARS, Chủ tịch nước đã trao tặng Huân chương Lao động hạng 3 vì “Đã có thành tích xuất sắc trong việc phòng, chống và khống chế dịch SARS, góp phần bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân” năm 2004.

Hiện tại, thuốc kháng virus (Oseltamivir- Taminflu) được đánh giá là thuốc đặc hiệu nhất trong điều trị nhiễm virus cúm A (A/H5N1; H1N1) và chưa có các chế phẩm khác thay thế hoặc bổ sung. Các phát hiện sau này đã thúc đẩy sự phát triển các thuốc kháng virus cúm thế hệ mới và các phương pháp phát hiện đột biến chỉ điểm kháng thuốc của virus cúm A/H5N1...

Trong giai đoạn 2006-2015, cùng với sự hỗ trợ của Trung tâm Phòng ngừa và Kiểm soát bệnh tật Mỹ (US-CDC) và WHO, hệ thống Giám sát Cúm đã được triển khai trên 15 điểm tại bốn vùng trên toàn quốc: miền bắc, miền trung, Tây Nguyên và miền nam. Hệ thống giám sát đã đưa ra bức tranh tổng thể về sự lưu hành của virus cúm mùa tại Việt Nam với đặc điểm di truyền và đặc tính kháng nguyên tương đồng cao với các virus dự tuyển vaccine cho khu vực Nam bán cầu. Sau đó, hệ thống giám sát cúm sẽ đánh giá tình hình chung của sức khỏe toàn cầu và lựa chọn loại virus cúm để sản xuất vaccine.

Sau những thành công tham gia vào quá trình sản xuất vaccine cúm, các nghiên cứu hiện tại của Phòng Thí nghiệm tập trung xác định ảnh hưởng của tình trạng miễn dịch đã có sau khi tiêm vaccine cúm mùa đến khả năng dự phòng của vaccine nhắc lại hằng năm, đặc biệt với virus cúm A/H3N2.

15 năm sau những nỗ lực nghiên cứu, công trình khoa học về cúm đã được vinh danh tại Giải thưởng Kovalevskaia 2019. PGS, TS Lê Thị Quỳnh Mai tâm sự, chị và các đồng nghiệp tại Phòng Thí nghiệm vô cùng hạnh phúc khi nhận được giải thưởng này, vì công sức nghiên cứu đầy tâm huyết trong nhiều năm của nhóm các nhà khoa học đã được ghi nhận.

“Công trình của chúng tôi đã công bố 207 bài báo trên các Tạp chí khoa học uy tín trong nước và quốc tế, trong đó có hơn 140 công bố quốc tế và 66 công bố trong nước về những vấn đề liên quan đến cúm. Hiện tại, Phòng thí nghiệm Cúm là thành viên của Hệ thống Giám sát cúm toàn cầu (GISRS), thường xuyên cập nhật số liệu virus học cúm hằng tháng vào mạng lưới Flunet của WHO và chia sẻ các chủng cúm mùa đại diện của Việt Nam hằng năm (50 chủng/năm) tới các trung tâm nghiên cứu cúm chuẩn thức để lựa chọn thành phần vaccine cúm hằng năm”, PGS Quỳnh Mai tự hào nói.

Những nữ khoa học chinh phục các loại virus ảnh 2

PGS, TS Lê Thị Quỳnh Mai.

Từ cúm đến SARS-CoV-2: Không bỡ ngỡ, không bất ngờ

Không bị bỡ ngỡ, không bị bất ngờ với công việc chẩn đoán phát hiện sớm virus Sar-CoV-2 và hướng nghiên cứu tiếp theo – đó là sự tự tin có được của tập thể các cán bộ nghiên cứu tại Viện VSDTTƯ kể từ sau công trình khoa học nghiên cứu về cúm.

Để có được thành quả hôm nay, những nhà khoa học nữ đã phải hy sinh rất nhiều, xuyên Tết nguyên đán để có được thành quả là một trong bốn nước phân lập được virus corona chủng mới.

Cuối tháng 12-2019, ca bệnh do nCoV bùng phát tại Trung Quốc và đã có ca tử vong. Mọi người trong Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương bắt đầu lo lắng thật sự. Tối 28 Tết, Phòng Thí nghiệm, Viện VSDTTƯ được thông báo có ca bệnh đầu tiên tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, cả phòng xác định tinh thần phải làm việc xuyên Tết.

Những nữ khoa học chinh phục các loại virus ảnh 3

Các nhà khoa học đã phân lập được virus SARS-CoV-2.

PGS, TS Nguyễn Lê Khánh Hằng, Phó Trưởng Khoa Virus, Viện VSDTTƯ kể lại, thời điểm nhiều lo lắng áp lực nhất là từ ngày 28 Tết đến mùng 6 Tết vì tất cả hệ thống chẩn đoán, các thông tin cập nhật, sàng lọc đều chưa có tiêu chuẩn nào. Ngày mùng 6 Tết (30-1-2020), khi phòng khẳng định ba trường hợp nhiễm đầu tiên tại miền bắc, lúc đó mọi người mới cảm thấy có lo lắng thật sự.

Từ mùng 6 Tết, cỡ mẫu tăng lên đột biến, có ngày lên tới 70-80 mẫu. Sau khi khoanh vùng được ổ nhiễm nhiều nhất, có những ngày, số mẫu tăng lên gần 100 và chủ yếu mẫu lấy từ Vĩnh Phúc. Khối lượng công việc tăng gấp bốn lần, tần suất công việc cao hơn.

Cả quá trình xét nghiệm cần rất nhiều bước, đòi hỏi các nhân viên phòng xét nghiệm phải có độ chính xác cao nhất. Máy móc cũng cần nghỉ ngơi, con người cũng cần sự tỉnh táo tối đa để cho được kết quả chính xác nhất. Mỗi bệnh phẩm lấy về, đều được xem xét cả về dịch tễ, triệu chứng để đối chiếu với kết quả xét nghiệm, không để lọt âm tính giả. Kết quả thiếu chuẩn xác sẽ gây nhiều hệ lụy hay việc bảo quản các mẫu bệnh phẩm thiếu chính xác, cẩn trọng phát tán virus ra ngoài, cán bộ xét nghiệm là người lây nhiễm đầu tiên.

Ngày 12-2-2020, Bộ Y tế đã trao Bằng khen của Bộ Y tế cho một tập thể và sáu cá nhân của Viện VSDTTƯ vì đã có thành tích xuất sắc trong việc nghiên cứu nuôi cấy và phân lập thành công Covid-19.

Theo PGS, TS Lê Thị Quỳnh Mai, lúc này, bên cạnh nhiệm vụ cấp thiết xét nghiệm chẩn đoán trả kết quả trong 24 giờ theo bộ mồi đặc hiệu đúng tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới, thì Viện phải bắt tay ngay vào nghiên cứu phân lập virus Covid-19.

PGS, TS Lê Thị Quỳnh Mai cùng 10 người là những cán bộ của Phòng Thí nghiệm cúm và Phòng Thí nghiệm Các tác nhân virus gây bệnh từ động vật sang người (Khoa Virus) đã bắt tay vào nuôi cấy. Đứng trước virus corona chủng mới mà thế giới vẫn còn đang loay hoay, cỡ mẫu tại Việt Nam còn ít, các cán bộ nghiên cứu phải lựa chọn dòng tế bào nào phù hợp để nhân lên con virus corona.

Dựa trên các bài báo đã được đăng trên thế giới, đặc biệt là các bài báo ở Trung Quốc, nhóm nghiên cứu đã phải sử dụng rất nhiều loại tế bào khác nhau, cuối cùng đã lựa chọn dòng tế bào thụ cảm phù hợp để phân lập. Cuối cùng, trong các mẫu bệnh phẩm phân lập có mẫu dương tính, đồng nghĩa là con virus đã xâm nhập vào trong tế bào, nó sống, nó nhân lên trong tế bào, nó giải phóng ra và lại xâm nhập vào tế bào khác. Đó là một con virus hoàn chỉnh.

Và thật may mắn, con virus SARS-CoV đã được Viện nuôi cấy và phân lập thành công cách đây 17 năm vẫn còn lưu giữ tại phòng An toàn sinh học cấp 3 để phục vụ công tác nghiên cứu.

“Định dạng được virus Covid-19 rồi!”, tất cả cùng vỡ òa hạnh phúc. Chỉ sau một tuần nuôi cấy, phân lập, nhóm nghiên cứu đã tự tin đã tìm được loại virus lạ đang gây ra dịch bệnh lan rộng toàn cầu này.

Những nữ khoa học chinh phục các loại virus ảnh 4

Thứ trưởng Y tế Đỗ Xuân Tuyên trao tặng Bằng khen của Bộ Y tế cho PGS, TS Lê Thị Quỳnh Mai vì thành tích phân lập virus corona chủng mới.

Phó Viện trưởng Lê Thị Quỳnh Mai chia sẻ, đây là thành công rất quan trọng vì kết quả phân lập được virus sẽ giúp Việt Nam giải mã nguồn gốc của virus mới, độc lực, cơ chế gây bệnh, khả năng xâm nhập, tính sinh miễn dịch… Còn Phó Trưởng khoa Virus Khánh Hằng hồ hởi nói, kết quả này là dữ liệu tiên quyết để nghiên cứu các liệu pháp điều trị, phát triển các sinh phẩm chẩn đoán đặc hiệu và sản xuất vaccine sau này.

Việc Việt Nam là một trong bốn nước phân lập thành công virus corona chủng mới tạo điều kiện cho việc sản xuất test xét nghiệm nhanh cho các trường hợp nhiễm và nghi virus corona; nâng khả năng xét nghiệm hàng nghìn mẫu bệnh phẩm mỗi ngày trong trường hợp cần thiết. Thành công đó còn giúp cho nghiên cứu về độc lực của virus này trên người Việt Nam, đặc điểm lây nhiễm, giúp công tác điều trị và chống dịch hiệu quả.

Những ngày này, các cán bộ khoa học của Phòng vẫn đang đi một số tỉnh, thành phố để tập huấn cho các cán bộ y tế tại hệ thống xét nghiệm ở bệnh viện và các trung tâm kiểm soát bệnh tật các tỉnh, để đội ngũ này làm được xét nghiệm phát hiện sớm virus corona chủng mới, để có biện pháp đáp ứng hợp lý.

Nhìn nhận về thành quả có được của tập thể các nhà khoa học nữ của viện, PGS, TS Lê Thị Quỳnh Mai chia sẻ, đây là thành tựu tiếp bước của các nhà khoa học từ 20 năm trước, khi Viện cũng đã từng được vinh danh tại giải thưởng này. Với một môi trường khoa học tốt, được sự hỗ trợ của các thế hệ lãnh đạo trong nghiên cứu nên các nhà khoa học nữ phát huy được các ý tưởng, được tiếp cận những thông tin khoa học cập nhật tốt nhất trên thế giới. “Với những điều kiện và môi trường tốt như vậy, không làm tốt thì thật xấu hổ”, PGS, TS Quỳnh Mai tâm sự.

Ở Viện VSDTTƯ, có tới 70% cán bộ là nữ, vì thế, công việc nghiên cứu tương đối vất vả. Nhưng không vì vất vả mà các nữ cán bộ khoa học lùi bước. “Tôi rất mong thế hệ trẻ tiếp theo sẽ tiếp tục duy trì được truyền thống nghiên cứu khoa học của viện để sau này sẽ có thêm những công trình nghiên cứu được cộng đồng khoa học, cũng như xã hội công nhận”, PGS, TS Quỳnh Mai nói.