Khát vọng làm chủ công nghệ thiết bị quân sự của Việt Nam

Hiện đại hóa quốc phòng là mục tiêu được Đảng, Nhà nước và Quân đội đặt ra rất rõ ràng, các doanh nghiệp quân đội “lĩnh ấn tiên phong” thực hiện sứ mệnh này. Vừa qua, báo cáo của Tổng quan lực lượng Quân sự 2020 (Military Balance 2020) của Viện Nghiên cứu Chiến lược quốc tế (IISS, Vương quốc Anh) đã đề cập đến Tổng công ty Công nghiệp Công nghệ cao Viettel (VHT) là một trong những doanh nghiệp trang thiết bị quốc phòng mới tiêu biểu của khu vực châu Á. Đây chính là thành quả, là minh chứng rõ nét thể hiện khát vọng làm chủ công nghệ và bản lĩnh Việt Nam.

Radar cảnh giới biển do VHT sản xuất. Để đạt được thành công, VHT sử dụng tối đa nguồn lực với mục tiêu chinh phục mọi vũ khí khí tài quân sự, phục vụ an ninh quốc phòng của quốc gia. (Ảnh: VHT)
Radar cảnh giới biển do VHT sản xuất. Để đạt được thành công, VHT sử dụng tối đa nguồn lực với mục tiêu chinh phục mọi vũ khí khí tài quân sự, phục vụ an ninh quốc phòng của quốc gia. (Ảnh: VHT)

Với việc xác định “tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển hiện đại”, Nghị quyết 23-NQ/TW ngày 22-3-2018 của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2045 đã đề ra các mục tiêu, xác định nhiệm vụ trọng tâm và các lĩnh vực ưu tiên đầu tư phát triển.

Quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết nêu rõ: “Phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng, thực sự trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia; tăng cường tiềm lực, tận dụng và phát triển liên kết công nghiệp quốc phòng, an ninh và công nghiệp dân sinh”, đồng thời “bám sát, kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển công nghiệp và kinh nghiệm công nghiệp hóa của thế giới”.

Từ kinh nghiệm của thế giới

Trên thực tế, định hướng phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng lưỡng dụng không phải là mới, đã được các nước công nghiệp như Mỹ, Đức, Anh hay gần đây là Nga, Ấn Độ thực hiện. Một quốc gia cho dù có nền kinh tế lớn mạnh đến đâu cũng không thể “đổ tiền” vào phát triển công nghiệp quốc phòng “đơn dụng” chỉ để phát triển các món “đồ chơi”.

Nhưng dù sao việc phát triển công nghiệp quốc phòng ở các nước lớn cũng dễ dàng hơn vì họ có nguồn lực tổng hợp rất mạnh, giúp các chính phủ “bạo chi”. Đối với các quốc gia nhỏ, đặc biệt là khi nền kinh tế còn khó khăn, thì nỗ lực để làm chủ công nghệ, vươn tầm thế giới, vừa bảo đảm nhiệm vụ giữ vững chủ quyền quốc gia và phát triển đất nước, luôn có ý nghĩa sống còn. Và câu chuyện của đất nước Israel là một thí dụ điển hình.

Trong cuốn sách “Quốc gia khởi nghiệp” nổi tiếng của đồng tác giả Dan Senor và Saul Singer dẫn câu chuyện, quyết định cắt viện trợ quân sự cho Israel của tổng thống Pháp De Gaulle vào cuối thập niên 60, đưa số phận đất nước và người dân Israel khi đó vào tình cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”. Chính việc này đã “giúp” Israel đưa ra quyết định phải tự chủ trong công nghệ vũ khí, để rồi tự nâng tầm và mạnh mẽ tiến vào đợt bùng nổ công nghệ cao sau đó. Những nhà lãnh đạo có tầm nhìn của đất nước “nhỏ bé” này đã khơi dậy trí tuệ, tài năng, tâm huyết của mọi người dân và nhanh chóng sản xuất được những khí tài hạng nặng như xe tăng, máy bay chiến đấu...

Hiện nay, Israel được biết đến là quốc gia rất hùng mạnh về công nghệ cũng như thiết bị quân sự nhờ quyết tâm tự lực, tự cường. Lấy “bệ đỡ” từ công nghiệp quốc phòng, các doanh nghiệp Israel sản xuất nhiều sản phẩm công nghiệp dân dụng chất lượng, có tính cạnh tranh cao, xuất khẩu đi khắp nơi trên thế giới. Không dừng lại ở đó, các ngành công nghệ sinh học, công nghệ vũ trụ của người Israel cũng phát triển rực rỡ, nhiều nhà khoa học, kĩ sư, doanh nhân nổi tiếng của quốc gia này xuất thân từ người lính và trưởng thành từ các doanh nghiệp quân đội.

Trở lại với định hướng phát triển công nghiệp quốc phòng của Việt Nam, mới đây trong bài viết “Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng lưỡng dụng, tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại cho Quân đội nhân dân Việt Nam” đăng trên Tạp chí Cộng sản (tháng 9-2020), Thượng tướng Bế Xuân Trường, Thứ trưởng Quốc phòng, nêu rõ: “Trước mắt, cần tập trung nguồn lực, ưu tiên đầu tư, đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các chương trình, dự án trọng điểm, nhất là hiện đại hóa công nghiệp quốc phòng ở một số lĩnh vực mũi nhọn để phát triển các hệ thống vũ khí mới, hiện đại. Trên cơ sở đó, từng bước chuyển giao công nghệ cho công nghiệp dân dụng, tạo nền tảng, động lực để phát triển công nghiệp quốc gia; phấn đấu thực hiện mục tiêu quốc gia khởi nghiệp từ phát triển công nghiệp quốc phòng như một số nước phát triển trên thế giới”.

Khát vọng làm chủ công nghệ thiết bị quân sự của Việt Nam -0
Chiến sĩ Sư đoàn Phòng không 367 triển khai vũ khí sẵn sàng chiến đấu. (Ảnh: TTXVN) 

Theo Thượng tướng Bế Xuân Trường, “thực tiễn cho thấy, nhu cầu đầu tư cho xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh là rất lớn, trong khi đó ngân sách nhà nước đầu tư cho lĩnh vực này còn hạn hẹp. Vì thế, bên cạnh việc tăng cường nguồn đầu tư của Nhà nước, cần mở rộng phương thức huy động, phát huy tổng thể các nguồn lực của đất nước cho thực hiện nhiệm vụ này”.

Thượng tướng Bế Xuân Trường cũng ghi nhận: “Các dự án đầu tư phát triển công nghiệp quốc phòng, nhất là các dự án trọng điểm, công nghệ cao, được triển khai quyết liệt, đúng định hướng và đưa vào khai thác, sử dụng có hiệu quả. Năng lực nghiên cứu, thiết kế, sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật của công nghiệp quốc phòng có sự chuyển biến rõ nét và có bước đột phá”.

Dẫn chứng trên thể hiện mục tiêu phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng lưỡng dụng đã được Đảng, Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam đặt ra là phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam, đã và đang được các doanh nghiệp Việt Nam nỗ lực thực hiện và đạt được một số thành quả đáng tự hào. Trong số đó, Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel) được kỳ vọng sẽ tạo nên những bước đột phá, và câu chuyện tiếp theo là một thí dụ.

“Mắt thần” - make in Vietnam được Mỹ cấp bằng sáng chế

Câu chuyện khởi đầu vào 11 năm trước, khi Viettel nhận nhiệm vụ nghiên cứu sản xuất radar và chế tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh để tiết kiệm chi phí đắt đỏ khi mua sản phẩm của nước ngoài, chưa kể đến những khó khăn trong quá trình vận hành như bảo trì, bảo dưỡng. Và những kĩ sư của Tổng Công ty Công nghiệp Công nghệ cao Viettel (VHT) là những người lĩnh ấn thực hiện nhiệm vụ này.

Dự án chế tạo radar đầu tiên chỉ có năm người, mỗi người phụ trách một bộ phận và kiến thức về radar lúc bấy giờ là con số 0 tròn trĩnh. Trong giai đoạn 2010-2014, để bắt tay chế tạo radar, các kĩ sư của Tổng công ty Công nghệ cao Viettel (VHT) phối hợp với một đơn vị khác để hoàn thiện sản phẩm nhưng đây chỉ là sản phẩm hiện đại hóa từ đài radar cũ. Cũng trong thời gian đó, song song với việc chế tạo sản phẩm trên, dựa vào cơ sở nghiên cứu thiết kế cũng như kinh nghiệm thực tế, một sản phẩm radar cảnh giới phòng không được ra đời bởi chính người Viettel, đó là Radar cảnh giới bắt thấp dải sóng đề-xi-mét. Tháng 1-2015, sản phẩm này đã nghiệm thu thành công ở cấp Bộ Quốc phòng và đây là sản phẩm đầu tiên trong lĩnh vực radar do chính “người Viettel” làm chủ hoàn toàn từ khâu thiết kế đến gia công sản xuất.

Khát vọng làm chủ công nghệ thiết bị quân sự của Việt Nam -0
Tổng công ty Công nghệ cao Viettel (VHT) làm chủ hoàn toàn từ khâu thiết kế đến gia công sản xuất thiết bị radar quân sự, được ví như “mắt thần” bảo vệ Tổ quốc. (Ảnh: VHT) 

Nhận xét về sự khác biệt của sản phẩm này do với các loại radar nhập khẩu từ nước ngoài, Thiếu úy Phùng Thái Hà thuộc Sư đoàn 377, Quân chủng Phòng không – Không quân khẳng định radar do Viettel sản xuất có tính năng kỹ thuật chiến đấu được bảo mật tốt hơn so với radar được cung cấp bởi nước ngoài, đặc biệt là tần số. “Nếu lộ lọt về tần số sẽ giảm khả năng chiến đấu của khí tài, dễ bị địch gây nhiễu, từ đó làm giảm khả năng chiến đấu của đơn vị”, Thiếu úy Phùng Thái Hà lý giải.

Sản phẩm này không chỉ phục vụ trong nước, hiện Viettel đã xuất khẩu “radar –make in Vietnam” sang một số nước khác trên thế giới. Để đạt được “quả ngọt” này là cả một quá trình học hỏi không ngừng nghỉ của các kĩ sư VHT. Giám đốc Trung tâm Radar (thuộc VHT), kĩ sư Trần Vũ Hợp bộc bạch, chìa khoá duy nhất để giải bài toán từ con số 0 về kiến thức đến xuất khẩu thành công sản phẩm Radar “Make in Vietnam” chính là làm thật nhiều để lấy kinh nghiệm thực tế và không thể đốt cháy giai đoạn. “Bình thường mọi người làm việc 8 tiếng thì chúng tôi làm việc 12-14 tiếng/ngày, thậm chí làm xuyên đêm”, kĩ sư Trần Vũ Hợp chia sẻ.

Sau thành công của dự án radar cảnh giới phòng không, kĩ sư Trần Vũ Hợp cùng các cộng sự lại tiếp tục bắt tay vào sản xuất bằng được radar cảnh giới biển, thiết bị chủ lực dùng trong hải quân. Trong quá trình nghiên cứu, chế tạo radar cảnh giới vùng biển, kĩ sư Trần Vũ Hợp cùng các cộng sự còn là tác giả của sáng chế “Phương pháp phát hiện mục tiêu mặt nước trong môi trường nhiễu” vừa được cấp bằng sáng chế tại Mỹ vào tháng 10-2020 (Sáng chế số: US 10,802,130 B2 ngày 13-10-2020).

Khát vọng làm chủ công nghệ thiết bị quân sự của Việt Nam -0
 Sáng chế đã giải quyết được vấn đề phát hiện mục tiêu trong các môi trường nhiễu khác nhau, giúp tăng khả năng phát hiện mục tiêu của đài radar từ 10-15% so với sản phẩm nhập ngoại tùy theo từng loại mục tiêu cụ thể. (Ảnh: VHT)

Sản phẩm nêu trên chỉ là một trong số bốn sản phẩm của VHT được Mỹ cấp bằng sáng chế và trong số hàng trăm sản phẩm được đăng ký bản quyền và bảo hộ tại Việt Nam. Sự thành công bước đầu của VHT là tín hiệu đáng mừng, minh chứng cho hướng đi đúng nhằm thực hiện nghị quyết của Đảng và chỉ đạo của Quân đội.

Mới đây, báo cáo của Tổng quan lực lượng Quân sự 2020 (Military Balance 2020) của Viện Nghiên cứu Chiến lược quốc tế (IISS, Vương quốc Anh) cũng đã đề cập đến Viettel và VHT là một trong những doanh nghiệp trang thiết bị quốc phòng mới tiêu biểu của khu vực châu Á, ứng dụng công nghệ tiên tiến trong phát triển các sản phẩm thông tin liên lạc, tác chiến điện tử, radar và hệ thống chỉ huy điều khiển. Điều này khẳng định khát vọng làm chủ công nghệ quân sự của Việt Nam đã đạt được thành quả ban đầu, được quốc tế ghi nhận.