Tài chính - kế toán thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển nhanh và bền vững

NDO -

Sáng 10-12, tại Hà Nội, Học viện Tài chính (Bộ Tài chính) đã phối hợp Đại học Tài chính - Marketing, tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế, chủ đề: “Tài chính - kế toán thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển nhanh và bền vững”.

Toàn cảnh hội thảo quốc tế.
Toàn cảnh hội thảo quốc tế.

Hơn 140 tham luận và các ý kiến phát biểu trực tiếp của các nhà khoa học, chuyên gia kinh tế trong nước và quốc tế tham dự trực tiếp tại hội thảo và từ các đối tác - điểm cầu trực tuyến tại Đại học Tài chính Quản trị kinh doanh, Đại học Tài chính - Marketing, Đại học Tài chính kế toán Anh, và đầu cầu Australia (Keynote speaker), đã tập trung vào các vấn đề: Thực trạng, vai trò, đóng góp của kinh tế tư nhân (KTTN) đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam; Kinh tế tư nhân trong bối cảnh hội nhập và cách mạng 4.0, tham gia các Hiệp định thương mại tư do; Điều kiện, giải pháp, định hướng phát triển kinh tế tư nhân, những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển KTTN; Chính sách pháp lý và tài chính - kế toán và vai trò Nhà nước trong cải cách tài chính công, cải cách hành chính, phát triển nguồn nhân lực, tạo môi trường thuận lợi và bình đẳng hỗ trợ KTTN đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển; chuyển giao công nghệ tiên tiến…

Trong quá trình đổi mới và phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, khu vực KTTN có nhiều tiềm năng to lớn và ngày càng được đề cao như là động lực quan trọng cho phát triển KT-XH đất nước. KTTN có tốc độ phát triển nhanh, quy mô, cơ cấu và phạm vi kinh doanh ngày càng mở rộng, có đóng góp ngày càng tích cực vào thu hút vốn xã hội, nâng cao nội lực sản xuất và cải thiện nguồn thu NSNN.  

Hội nghị lần thứ V, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3-6-2017 về phát triển kinh tế tư. Nghị quyết đề ra mục tiêu phát triển KTTN trở thành động lực quan trọng trong kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát triển KTTN nhanh, bền vững với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô, chất lượng và tỷ trọng trong tổng sản phẩm nội địa (GDP).

Nghị quyết là một bước tiến mới, tạo động lực thúc đẩy phát triển khu vực KTTN và toàn bộ nền kinh tế, đồng thời, thể hiện sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng phù hợp với thực tiễn phát triển của nền kinh tế sau 35 năm đổi mới.

Theo chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam phấn đấu đến năm 2025 có hơn 1,5 triệu doanh nghiệp (DN) và có ít nhất 2 triệu DN vào năm 2030. Tốc độ tăng trưởng của KTTN cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế; Phấn đấu tăng tỷ trọng đóng góp của khu vực KTTN đạt khoảng 55% GDP (năm 2025); 60 - 65% GDP (năm 2030) và 65 - 70% GDP (năm 2040)

Với định hướng chiến lược phát triển kinh tế ấy của Đảng và nhà nước trong thời gian qua, đã làm cho khu vực KTTN có những đóng góp quan trọng trong sự phát triển năng động của nền kinh tế, góp phần tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập của người dân, kinh tế tư nhân đã mạnh dạn đột phá và đi đầu trong nhiều lĩnh vực sản xuất, kinh doanh mới.

Theo Ban Kinh tế T.Ư, số lượng doanh nghiệp trong khu vực KTTN cả nước gia tăng mạnh từ 655.000 năm 2017 lên 730.000 vào năm 2018 và đạt hơn 750 nghìn DN vào cuối năm 2019.

Phong trào khởi nghiệp nở rộ, với khoảng 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo năm 2018. Quy mô của nhiều doanh nghiệp ngày càng mở rộng, một số doanh nghiệp đạt tổng tài sản đến hàng trăm nghìn tỷ đồng và sử dụng hàng chục nghìn lao động.

Trong vài năm gần đây, nhóm doanh nghiệp tư nhân có giá trị sản lượng chiếm khoảng 8% GDP cả nước, trong khi nhóm kinh tế hộ gia đình, cá thể chiếm khoảng 30%. Khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế tập thể chiếm 26% giá trị xuất khẩu, 34% giá trị nhập khẩu, đóng góp 38,20% tổng thu ngân sách nhà nước năm 2018.

Đội ngũ doanh nhân trong khu vực này ngày càng có bản lĩnh và kỹ năng kinh doanh thị trường; nhiều doanh nghiệp tư nhân đang điều chỉnh chiến lược đầu tư và kinh doanh theo hướng bền vững hơn, gắn nhiều hơn với công nghệ và đổi mới sáng tạo thông qua việc thiết lập trường đại học, viện/trung tâm nghiên cứu và triển khai cũng như hoàn thành được những công trình lớn, phức tạp trong một thời gian tương đối ngắn.

Tuy nhiên, trên thực tế, dù số lượng doanh nghiệp tư nhân thành lập nhiều nhưng khả năng trụ vững và phát triển hiệu quả còn thấp: Sự gia tăng số lượng của doanh nghiệp tư nhân chưa gắn với sự đột phá về chất lượng phát triển.

Khu vực kinh tế tư nhân đang bị phân cực, với 97% doanh nghiệp tư nhân là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (khoảng 70% số doanh nghiệp đăng ký có quy mô dưới 10 lao động và vốn đăng ký dưới năm tỷ đồng). Các doanh nghiệp có quy mô trung bình còn ít gây khó cho tích lũy vốn và công nghệ, cải thiện chuyên môn hóa, nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh; cũng như tạo chuỗi liên kết giá trị lan tỏa, đặc biệt trong lĩnh vực đổi mới sáng tạo và tăng trưởng.

Khu vực này vẫn đang phải đối mặt với nhiều rào cản cả về nhận thức lẫn khung khổ pháp luật, cơ chế, chính sách và thực thi cơ chế, chính sách cũng như môi trường kinh doanh mặc dù đã được cải thiện nhưng vẫn còn chậm, nhiều bất cập; chưa đồng đều giữa các bộ, ngành, địa phương, chưa thực chất trên một số lĩnh vực cũng như năng lực nội tại chưa cao của chính khu vực này.

Đa số các doanh nghiệp đang đối diện với nhiều khó khăn và hạn chế về điều kiện đất đai và mặt bằng sản xuất kinh doanh, về nguồn vốn và tín dụng, về năng lực đổi mới và cơ hội tiếp thụ khoa học công nghệ, về thông tin và thị trường, về đăng ký thương hiệu, bản quyền và bảo đảm chất lượng hàng hóa, cũng như về áp lực tâm lý xã hội và thủ tục quản lý nhà nước.

Sự liên kết giữa các loại hình và khu vưc doanh nghiệp còn mờ nhạt. Nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện tốt những quy định pháp luật về lao động, thuế, chủ yếu làm gia công, lắp ráp, với thu nhập thấp, hiệu quả không cao, khả năng tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh bị hạn chế.

Hiện tượng doanh nghiệp bị phá sản, hàng hóa không tiêu thụ được, đình đốn đình trệ sản xuất, nợ đọng và nợ khó đòi cao. Hoạt động của nhiều tổ chức xã hội-nghề nghiệp, các hiệp hội ngành nghề và các tổ chức quần chúng khác (kể cả tổ chức công đoàn) còn chưa được quan tâm, xây dựng, phát triển và hoạt động có hiệu quả trong khu vực KTTN.

Sự phân tầng trình độ công nghệ đang diễn ra trong từng ngành và trong nhiều DN; công nghệ lạc hậu, trung bình và tiên tiến cùng đan xen tồn tại; công nghệ tiên tiến, hiện đại chỉ tập trung ở một số ít DNTN, ở một số ít lĩnh vực.

Do trình độ công nghệ thấp, các DNTN không có khả năng kết nối cũng như tham gia ngành công nghiệp hỗ trợ cho các DN lớn, nhất là không thể tận dụng được hiệu ứng lan tỏa từ các DN FDI đang tăng trưởng nhanh; các DNTN phần lớn vẫn hoạt động ở thị trường trong nước, rất ít DNTN vươn được ra thị trường nước ngoài.

Ngay cả ở thị trường trong nước, dưới sức ép cạnh tranh gay gắt, các DNTN lớn có xu hướng rút khỏi các ngành sản xuất công nghiệp, nhường lại sân chơi cho các DN nước ngoài. Sự rút lui này cũng diễn ra trong một số lĩnh vực dịch vụ như phân phối, bán lẻ được ưu tiên và có nhiều tiềm năng của nền kinh tế; thiếu thị trường, thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh là trở ngại lớn nhất đối với các DNTN… Những bất cập này càng khiến cho khu vực KTTN chưa phát huy hết tiềm năng.

Đặc biệt, bối cảnh thế giới đương đại đang và sẽ diễn ra những thay đổi lớn lao về chính trị, kinh tế, xã hội và môi trường, điều kiện tự nhiên, thiên tai dịch bệnh và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, gắn liền những công nghệ đột phá như trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT),… càng tạo áp lực cho quá trình thúc đẩy KTTN phát triển nhanh và bền vững để đạt mục tiêu đến năm 2045 – kỷ niệm 100 năm lập quốc, Việt Nam được đứng vào nhóm nước phát triển, có thu nhập cao.

Phát triển nhanh chóng và hiệu quả khu vực KTTN là đòi hỏi cấp thiết từ cuộc sống và cũng là quyết tâm lớn của Đảng, Nhà nước; đồng thời, phải xuất phát từ thực tiễn đặc thù, các nguyên tắc của cơ chế  kinh tế thị trường, cũng như các cam kết và thông lệ quốc tế trong xu hướng mở cửa, tăng cường, hội nhập quốc tế.

Điều quan trọng không phải là ban cho kinh tế tư nhân những đặc quyền, đặc lợi, mà là tạo môi trường bảo đảm khu vực doanh nghiệp tư nhân thực sự bình đẳng, công bằng với các khu vực doanh nghiệp khác, kể cả trong đấu thầu.

Nhà nước cần có nhiều đột phá mới, táo bạo, tháo gỡ, giải quyết căn bản các vướng mắc, bất cập, bức xúc đang tồn tại hoặc sẽ phát sinh trong thực tiễn. Quản lý nhà nước đối với khu vực KTTN cần tạo điều kiện cho doanh nghiệp được tự do kinh doanh theo pháp luật, bình đẳng, cùng có lợi; coi trọng định hướng, hỗ trợ, kiểm tra, kiểm soát đối với KTTN bằng chính sách, thông tin thị trường và khuyến khích quá trình tái cơ cấu kinh tế.

Đặc biệt, cần thực sự đẩy mạnh cải cách nền hành chính quốc gia, sàng lọc, kiểm soát và trừng trị những kẻ nhũng nhiễu, vô trách nhiệm, sợ trách nhiệm đối với KTTN; kiện toàn tổ chức, nâng cao vai trò, năng lực, trách nhiệm của các hiệp hội ngành hàng, hiệp hội doanh nghiệp trong bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp và người lao động, tạo sự đồng thuận, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh trên cơ sở pháp luật và truyền thống dân tộc; giáo dục lòng yêu nước, tự hào dân tộc và trách nhiệm xã hội, bản lĩnh kinh doanh cho doanh nhân và người lao động; xây dựng một số thương hiệu chủ lực quốc gia và địa phương;  

Trước mắt, cần tập trung giải quyết các khó khăn của khu vực KTTN về nợ đọng, nợ xấu, mặt bằng sản xuất kinh doanh, nguồn vốn, năng lực khoa học – công nghệ và về thị trường...; tổ chức các đường dây nóng, các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc định kỳ và không định kỳ giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các doanh nhân, doanh nghiệp; mở rộng, phát triển đồng bộ và nâng cao chất lượng các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh nghiệp, nhất là cung cấp thông tin thị trường (chất lượng, giá cả và cung- cầu cũng như triển vọng sản phẩm).

Thông tin đối tác, cơ hội và kinh nghiệm kinh doanh; thông tin về môi trường đầu tư (các quy định pháp lý, thủ tục xuất - nhập khẩu; các yêu cầu và giấy chứng nhận về vệ sinh an toàn, chất lượng sản phẩm; các đặc điểm văn hoá, thị hiếu tiêu dùng; hệ thống phân phối hàng;...) và các dịch vụ xúc tiến thương mại (hội chợ, triển lãm, quảng cáo và tham quan thị trường, môi giới và tiếp xúc với các đối tác tiềm năng...).

Khuyến khích phát triển các dịch vụ hỗ trợ tư pháp, nhất là về đăng ký và xử lý tranh chấp thương hiệu, tư vấn kế toán, thuế, thủ tục xuất - nhập khẩu; các dịch vụ tài chính - ngân hàng, nổi bật là dịch vụ thanh toán, chuyển tiền, bảo hiểm và bảo lãnh tín dụng (kể cả bảo lãnh tín dụng quốc tế, thế chấp bằng tài sản ở trong nước của các doanh nhân và doanh nghiệp Việt Nam); xây dựng và triển khai hiệu quả những chương trình giáo dục, đào tạo riêng, thích hợp nhằm bồi dưỡng kiến thức của các giám đốc doanh nghiệp cũng như người lao động trong khu vực KTTN...

Về phía doanh nghiệp cũng cần có sự chủ động tự điều chỉnh, bám sát và đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh thị trường và quản trị rủi ro; vừa tuân thủ luật pháp, vừa chủ động phản biện, nêu rõ các khó khăn các vướng mắc và cụ thể hóa yêu cầu, kiến nghị, góp phần hoàn thiện luật pháp kinh doanh, tìm kiếm các biện pháp để tháo gỡ khó khăn cho KTTN, đưa đất nước phát triển theo đúng tinh thần KTTT định hướng XHCN.

Một nền KTTT mạnh là nền kinh tế có khu vực KTTN mạnh. Công cuộc đổi mới toàn diện và những đột phá táo bạo, đúng đắn về thể chế KTTT sẽ là một bảo đảm cho triển vọng phát triển của khu vực KTTN Việt Nam.