Hoàn thiện các hệ thống chính sách về nông nghiệp hữu cơ

NDO -

NDĐT - Canh tác nông nghiệp hữu cơ đã và đang là xu hướng phát triển của nhiều quốc gia thế giới khi áp lực về lương thực giảm, áp lực vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lượng nông sản và môi trường tăng. Tuy nhiên, nông nghiệp hữu cơ Việt Nam vẫn đứng trước những thách thức, bởi chưa có cơ chế, chính sách đặc thù đủ mạnh để khuyến khích phát triển.

Hiện nay Bộ NN-PTNT đang khẩn trương hoàn thiện các dự thảo đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ phấn đấu trong top 15 của thế giới.
Hiện nay Bộ NN-PTNT đang khẩn trương hoàn thiện các dự thảo đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ phấn đấu trong top 15 của thế giới.

Thực trạng sản xuất nhỏ lẻ

Theo bà Trần Thị Loan, Phó giám đốc Trung tâm Phát triển bền vững nông nghiệp, nông thôn, Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp, nhìn chung quy mô sản xuất nông nghiệp hữu cơ mới chỉ ở dạng mô hình nhỏ lẻ, quy mô nhỏ, chưa có vùng tập trung, sản phẩm ở dạng đơn lẻ…
Hiện Việt Nam có tiêu chuẩn chung đối với sản xuất, chế biến, ghi nhãn sản phẩm hữu cơ; trồng trọt, chăn nuôi hữu cơ và một số sản phẩm như: gạo, chè, sữa, tôm; nhưng chưa có tiêu chuẩn đối với các sản phẩm: thủy sản, dược liệu, mỹ phẩm, rau, quả, cà phê, hồ tiêu hữu cơ…

Bên cạnh đó, Việt Nam chưa có danh mục vật tư nông nghiệp đầu vào như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn chăn nuôi… được phép sử dụng trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ.

Việc chứng nhận sản phẩm hữu cơ ở Việt Nam có ba hình thức chứng nhận là: Chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế, chứng nhận PGS, chứng nhận TCVN. Việt Nam có 50 doanh nghiệp đạt chứng nhận hữu cơ USDA với nhiều sản phẩm như trà, hạt điều, dừa, artiso...; 18 doanh nghiệp được chứng nhận theo tiêu chuẩn USDA - NOP và 12 doanh nghiệp được chứng nhận theo tiêu chuẩn EC 834/2007.

Có thể nói, hệ thống canh tác nông nghiệp hữu cơ đã và đang là xu hướng phát triển của nhiều quốc gia thế giới khi áp lực về lương thực giảm, áp lực vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lượng nông sản và môi trường tăng. Tuy nhiên, nông nghiệp hữu cơ Việt Nam vẫn đứng trước những thách thức, bởi chưa có cơ chế, chính sách đặc thù đủ mạnh để khuyến khích phát triển. Hệ thống chứng nhận, tiêu chuẩn, quy chuẩn, giám sát chưa hoàn chỉnh; các hộ sản xuất vẫn là tự nguyện…

Cả nước hiện có 40 tỉnh, thành phố có trồng trọt hữu cơ với gần 23.400 ha. Diện tích chủ yếu là sản xuất theo các tiêu chuẩn của Liên hiệp châu Âu (EU), Mỹ, Nhật Bản… chiếm 97,5% diện tích trồng trọt hữu cơ; sản phẩm chủ yếu là rau, quả, chè.

Chăn nuôi lợn hữu cơ có 12 tỉnh, thành phố có khoảng 64.200 con, sản lượng thịt hơi gần 6.000 tấn; chăn nuôi gà hữu cơ có ở sáu tỉnh với 273 nghìn con, sản lượng thịt hơi 922 tấn; chăn nuôi bò hữu cơ có hai tỉnh là Nghệ An và Lâm Đồng được các tổ chức quốc tế công nhận với tổng số 3.500 con.

Nuôi trồng thủy sản hữu cơ mới chỉ có rất ít địa phương triển khai và chủ yếu theo hướng hữu cơ và sinh thái, đối với khai thác và đánh bắt chủ yếu dựa vào tiềm năng mặt nước ao hồ tự nhiên. Hiện, cả nước có bốn tỉnh có mô hình nuôi trồng thủy sản hữu cơ với tổng diện tích 134.800 ha.

Hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển nông nghiệp hữu cơ

Chia sẻ về vấn đề này, Thứ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trần Thanh Nam cho biết, qua khảo sát nông nghiệp hữu cơ đã có trên tất cả các lĩnh vực: trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, lâm nghiệp. Việt Nam có lợi thế phát triển nông nghiệp hữu cơ, tuy nhiên tùy thuộc vào lợi thế mỗi vùng, miền.

Để có định hướng, mục tiêu phát triển sản xuất hữu cơ, thương mại sản phẩm cũng như các giải pháp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang xây dựng dự thảo Đề án “Phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020 -2030”.

Mục tiêu của dự thảo đề án là đến năm 2030 Việt Nam phấn đấu trong top 15 của thế giới về nông nghiệp hữu cơ. Dự kiến trong quý IV-2019, dự thảo sẽ được trình Thủ tướng Chính phủ xem xét và ban hành.

Theo Thứ trưởng Trần Thanh Nam, trong các giải pháp triển khai đề án sẽ chú trọng đến giải pháp hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân tham gia phát triển nông hữu cơ. Cùng với đó là xây dựng được hệ thống phân phối sản phẩm trên phạm vi cả nước để bảo đảm nhu cầu tiêu dùng trong nước đang tăng cũng như hướng đến xuất khẩu.

“Việt Nam có tiềm năng xuất khẩu sản phẩm hữu cơ, đặc biệt là sang thị trường lớn châu Âu. Chính vì vậy, cần có sự tham gia của các doanh nghiệp vào lĩnh vực này. Bên cạnh đó, cần có sự quản lý chặt chẽ các tổ chức chứng nhận, đơn vị được giao trong việc giám sát kết quả chứng nhận”, Thứ trưởng Trần Thanh Nam nói.