Đổi mới sản xuất nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng (Tiếp theo và hết) (*)

Bài 4: Hướng tới nền nông nghiệp quy mô lớn, hiệu quả cao

Để nền nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng nói riêng và cả nước nói chung phát huy tiềm năng và giá trị, đã đến lúc phải đổi mới sản xuất hướng đến quy mô lớn, hiệu quả cao. Theo đó, cần tháo gỡ rào cản lớn nhất hiện nay là ruộng đất manh mún, nhỏ lẻ để đẩy nhanh quá trình tập trung, tích tụ ruộng đất. Muốn vậy, cần có cú huých mạnh mẽ từ Nhà nước thông qua việc sớm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tế triển khai và trong cơ chế, chính sách về đất đai hiện nay.

Sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại Nông trường VinEco Hà Nam (huyện Lý Nhân, Hà Nam). Ảnh: HÀ CẦU
Sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại Nông trường VinEco Hà Nam (huyện Lý Nhân, Hà Nam). Ảnh: HÀ CẦU

Tầm nhìn mới về tư liệu sản xuất

Chủ trương tập trung, tích tụ ruộng đất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp thông qua mở rộng quy mô sản xuất phù hợp, áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ và hình thành khu vực chuyên canh theo hướng sản xuất nông nghiệp hiện đại, chuyên môn hóa gắn với thị trường đã được khẳng định trong các nghị quyết của Đảng. Báo cáo Chính trị trình Đại hội XI của Đảng xác định: “Trên cơ sở tích tụ đất đai, đẩy mạnh cơ giới hóa, áp dụng công nghệ hiện đại (nhất là công nghệ sinh học); bố trí lại cơ cấu cây trồng, vật nuôi; phát triển kinh tế hộ, trang trại, tổ hợp tác, hợp tác xã nông nghiệp, vùng chuyên môn hóa, khu nông nghiệp công nghệ cao, các tổ hợp sản xuất lớn”. Trước đó, Nghị quyết số 26-NQ/T.Ư của Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn xác định: “Sửa đổi Luật Đất đai theo hướng: Tiếp tục khẳng định đất đai là sở hữu toàn dân, Nhà nước thống nhất quản lý theo quy hoạch, kế hoạch để sử dụng có hiệu quả; giao đất cho hộ gia đình sử dụng lâu dài; mở rộng hạn mức sử dụng đất, thúc đẩy quá trình tích tụ đất đai; công nhận quyền sử dụng đất được vận động theo cơ chế thị trường, trở thành một nguồn vốn trong sản xuất, kinh doanh”.

Cũng liên quan đến việc xây dựng các chính sách cho tập trung, tích tụ ruộng đất, theo thông tin từ Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ đã được giao chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương xây dựng Dự thảo Nghị định quy định về tập trung, tích tụ đất đai cho sản xuất nông nghiệp. Hiện Dự thảo đang được lấy ý kiến đóng góp. Bên cạnh đó, Bộ cũng dự kiến sẽ sớm trình Chính phủ Dự thảo sửa đổi Luật Đất đai năm 2013 để Chính phủ xem xét, hoàn thiện trước khi trình Quốc hội.

Về phía Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong phiên chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ tám, Quốc hội khóa XIV, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho rằng: Tập trung đất đai là cần thiết để khắc phục tình trạng sản xuất manh mún, nhằm phát triển nông nghiệp quy mô lớn, công nghệ cao. Trên cơ sở tích tụ ruộng đất sẽ từng bước giảm số hộ nhỏ lẻ, cùng với đó là phát triển cơ cấu kinh tế, tăng dần tỷ trọng các ngành dịch vụ, công nghiệp, giảm bớt lao động nông nghiệp. Tới đây các vấn đề về đất đai cũng sẽ được đề xuất sửa đổi theo hướng khuyến khích tập trung, tích tụ ruộng đất.

Như vậy, chủ trương tập trung, tích tụ ruộng đất đã có và được coi là bước đi cần thiết, đáp ứng đòi hỏi của tính hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp, tạo điều kiện thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Những năm qua, việc tích tụ, tập trung ruộng đất đã diễn ra với các hình thức và bước đi đa dạng, sáng tạo ở nhiều địa phương. Thực tế, hiện đang có nhiều cơ sở, điều kiện thuận lợi cho việc tích tụ đất đai. Trước hết, đó là sự chuyển dịch mạnh mẽ lao động từ lĩnh vực nông nghiệp sang phi nông nghiệp khiến nhiều diện tích đất nông nghiệp bị bỏ hoang hoặc canh tác cầm chừng cho nên một bộ phận nông dân có xu hướng chuyển nhượng hoặc cho thuê quyền sử dụng đất. Thứ hai là nhiều mô hình tích tụ theo các hình thức khác nhau đã đạt được hiệu quả kinh tế và xã hội đáng kể. Hơn nữa, đó cũng là xu hướng chung, tất yếu trong quá trình hướng tới nền sản xuất nông nghiệp phát triển, hiện đại không chỉ riêng Việt Nam mà còn của nhiều quốc gia trên thế giới.

Nguyên Vụ trưởng Chính sách đối ngoại (Bộ Ngoại giao), Đại sứ Trần Đức Mậu nhận định: Thực trạng phát triển nông nghiệp ở các nơi trên thế giới cho thấy việc tích tụ đất đai là tất yếu bằng các hình thức khác nhau: Từ dồn điền đổi thửa đến mua bán, chuyển nhượng, thuê hoặc liên doanh liên kết giữa cá nhân và xí nghiệp trong khuôn khổ một quốc gia hay giữa các quốc gia với nhau. Đến nay, quá trình này vẫn đang tiếp tục với tốc độ, mức độ và quy mô khác nhau, tùy theo điều kiện địa lý lịch sử và bối cảnh chính trị xã hội cụ thể. Thí dụ như ở Mỹ, theo thống kê của Bộ Nông nghiệp Mỹ, diện tích đất canh tác trung bình của xí nghiệp nông nghiệp năm 2014 là 175 ha, tăng 8 ha so với năm 2007. Ở Nga, quy mô về diện tích đất canh tác cũng khá lớn: Xí nghiệp nông nghiệp gia đình có diện tích đất canh tác trung bình là 150 ha; công ty trách nhiệm hữu hạn nông nghiệp với diện tích đất canh tác trung bình từ 3.000 ha đến 20 nghìn ha; các tập đoàn nông nghiệp diện tích canh tác lên đến 500 nghìn ha.

Thậm chí, việc tích tụ ruộng đất, áp dụng mô hình tổ chức sản xuất trong một số trường hợp đã đạt quy mô rất lớn, với hình thức hợp tác không chỉ trong nước mà giữa doanh nghiệp thuộc nhiều quốc gia, kết hợp nhiều lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi và chế biến nông sản. Chẳng hạn như Hãng Consolidated Pastoral Company (Ô-xtrây-li-a và In-đô-nê-xi-a) sử dụng 5,5 triệu ha đất ở Ô-xtrây-li-a cho 16 trang trại nuôi bò và có hai trang trại lớn ở In-đô-nê-xi-a. Tập đoàn nông nghiệp EL Tejar của Bra-xin sử dụng một triệu ha đất nông nghiệp ở Bra-xin, Ác-hen-ti-na, U-ru-goay và Bô-li-vi-a...

Sớm tháo gỡ vướng mắc trong cơ chế, chính sách

Rõ ràng, nếu chỉ có vai trò của chính quyền địa phương trong việc tháo gỡ khó khăn cho hộ nông dân, doanh nghiệp tập trung tích tụ ruộng đất phát triển nông nghiệp hàng hóa lớn thì vẫn là chưa đủ. Bởi lẽ có nhiều vấn đề liên quan chính sách pháp luật của Nhà nước về đất đai cũng cần được nghiên cứu sửa đổi. Đối với quy định về hạn mức giao đất, hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất, Phó Vụ trưởng Nông nghiệp - Nông thôn (Ban Kinh tế Trung ương) Vũ Mạnh Hùng cho rằng: Để khuyến khích tích tụ ruộng đất, cần mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp một cách hợp lý, phù hợp điều kiện đất đai của từng vùng và nhịp độ phát triển công nghiệp, dịch vụ. Tuy nhiên đi kèm với đó là phải có chế định ngăn chặn tình trạng tích tụ ruộng đất và sử dụng theo kiểu “phát canh thu tô”. Bên cạnh đó, hình thành hành lang pháp lý đẩy mạnh các hình thức cho thuê, sang nhượng, góp vốn bằng quyền sử dụng đất… để sớm tháo gỡ các nút thắt hiện nay trong các vấn đề liên quan các hình thức tích tụ.

Còn dưới góc nhìn về thị trường quyền sử dụng đất, Viện trưởng Lịch sử Đảng (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), PGS,TS Nguyễn Danh Tiên nêu quan điểm: “Cần xây dựng và hoàn thiện thể chế thị trường quyền sử dụng đất, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động này trên cơ sở quy luật thị trường. Đó là công nhận quyền tài sản đối với đất nông nghiệp; xây dựng trung tâm hỗ trợ giao dịch đất nông nghiệp thực hiện chức năng cung cấp thông tin, hỗ trợ định giá, thiết kế hợp đồng và giải quyết tranh chấp trong quá trình giao dịch đất đai giữa các cá nhân và tổ chức kinh tế. Thị trường chuyển nhượng quyền sử dụng đất cần được xây dựng công khai, minh bạch, khách quan, thủ tục hành chính đơn giản, các chính sách về thuế được ưu tiên. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần chú trọng việc thành lập tổ chức hỗ trợ pháp lý cho người dân góp vốn cho doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất bởi đây là một giao dịch phức tạp, khó kiểm soát rủi ro... Ngoài ra, có thể nghiên cứu mô hình một tổ chức trung gian về đất đai như một kho dữ liệu chứa các thông tin về người muốn cho thuê, chuyển nhượng, thế chấp quyền sử dụng đất, diện tích, vị trí các thửa đất, những cá nhân, tổ chức muốn thuê, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất...”.

Ngoài việc tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong vấn đề về hạn điền, thị trường quyền sử dụng đất... nhằm đẩy mạnh tích tụ ruộng đất thì Nhà nước cũng cần quản lý và giám sát chặt chẽ hơn việc tích tụ ruộng đất sử dụng cho mục đích sản xuất nông nghiệp. Đây là cơ sở để bảo đảm quyền, lợi ích và trách nhiệm cho cả bên tích tụ ruộng đất và bên cho thuê hay chuyển quyền sử dụng đất. Theo đó, cần thực hiện nghiêm các quy định như: Bắt buộc thực hiện chuyển quyền sử dụng đất (đối với đất mua) nếu không được sử dụng cho sản xuất nông nghiệp; thu hồi quyết định cấp đất, cho thuê đất (đối với đất được Nhà nước giao và cho thuê) nếu để đất trồng không sản xuất quá thời hạn...

Những biện pháp này nhằm tăng cường trách nhiệm sử dụng đất, đồng thời cũng là để tránh tình trạng đầu cơ đất nông nghiệp theo kiểu mua để đó chờ lên giá hoặc chờ dự án, hoặc tìm cách chuyển đổi mục đích sử dụng. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rõ rằng, việc đẩy mạnh tích tụ đất đai sẽ dẫn đến thực tế một bộ phận nông dân không còn đất trực tiếp sản xuất. Chính vì vậy, để bảo đảm đời sống cho nông dân cũng như giữ ổn định khu vực nông thôn thì cần thực hiện tốt các giải pháp rút lao động ra khỏi nông nghiệp và hỗ trợ thay đổi sinh kế.

Như phân tích của Viện trưởng Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn Trần Công Thắng: “Trong quá trình tập trung, tích tụ đất nông nghiệp cần xác định rõ trách nhiệm của chính quyền các cấp trong tổ chức thực hiện, xây dựng chính sách khuyến khích hỗ trợ đầu tư, hợp tác, liên kết sản xuất gắn với nhu cầu của thị trường và các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở nông thôn. Quá trình đó cần phải đi song song với quá trình chuyển dịch và phân công lại lao động trong nông nghiệp nông thôn thông qua các hoạt động hướng nghiệp, đào tạo nghề nông thôn, các chính sách cho vay tín dụng để chuyển đổi nghề của hộ nông dân. Ngoài ra, cần thực hiện tốt việc trợ giúp phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội cho người dân, nhất là người nghèo không có đất. Theo đó, triển khai có hiệu quả các chính sách bảo hiểm nông nghiệp, xóa đói, giảm nghèo đa chiều, chính sách bảo hiểm xã hội cho lao động nông thôn... Điều này đóng vai trò quan trọng trong việc hạn chế tâm lý giữ đất như một vật bảo đảm rủi ro, đồng thời tạo sinh kế bền vững cho các hộ nông dân trong và sau quá trình tập trung, tích tụ ruộng đất”.

Trở lại câu chuyện chính sách cho lĩnh vực nông nghiệp cách đây hơn 30 năm, kể từ khi ra đời Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 5-4-1988 (hay còn gọi là Khoán 10) của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. Theo Nghị quyết số 10, hộ gia đình được thừa nhận là đơn vị kinh tế tự chủ, nông dân được trao quyền sử dụng đất và mức khoán lâu dài. Đây được coi là một cú huých mạnh cho sản xuất nông nghiệp, thổi một luồng gió mới làm tăng năng suất lao động, hiệu quả sản xuất. Kết quả là, từ một nước thiếu lương thực triền miên, đến năm 1989 (chỉ sau một năm thực hiện Nghị quyết số 10) sản lượng lúa gạo của cả nước đã đạt 21,5 triệu tấn và lần đầu Việt Nam xuất khẩu hơn 1,2 triệu tấn gạo. Khi những nút thắt được tháo gỡ thì vẫn đồng đất ấy, con người ấy, đã tạo ra bước nhảy vọt về sự tăng trưởng sản xuất. Có thể thấy, Nghị quyết số 10 ra đời và có giá trị lịch sử bởi nó đáp ứng đúng yêu cầu của thực tiễn, của nông dân trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Nhưng đến nay, điều kiện sản xuất và kinh tế- xã hội đã có nhiều thay đổi, đang đòi hỏi Nhà nước cần có những chủ trương, chính sách phù hợp, mạnh mẽ để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, nhằm tạo ra những bước đột phá lớn tiếp theo cho sản xuất nông nghiệp.

* Bài 3: Nghịch lý trên đồng ruộng

* Bài 2: Ðịnh hình xu hướng mới

* Bài 1: Khi nông dân bỏ ruộng

--------------------------------------------------------------

(*) Xem Báo Nhân Dân từ số ra ngày 26, 27, 28-11-2019.

Theo dự thảo Nghị định quy định về tập trung, tích tụ đất đai cho sản xuất nông nghiệp, việc tập trung, tích tụ đất nông nghiệp được thực hiện thông qua các phương thức sau đây: Dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp; thuê quyền sử dụng đất nông nghiệp; liên kết, hợp tác để tổ chức sản xuất nông nghiệp; nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất nông nghiệp; nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp./