Chuyện làng biển nơi cuối trời Tổ quốc

Hơn 15 năm trước, cơn thịnh nộ của biển cả đã tàn phá tan hoang những mái nhà ở làng biển Khánh Hội, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau. Đau thương, thiệt hại không sao kể xiết khi cánh mày râu đều nằm lại lòng biển lạnh, xóm biển nghèo trở thành “làng góa phụ” buồn hiu hắt. Vượt qua nỗi đau, giờ đây những con tàu mới lại rẽ sóng ra khơi, những đứa trẻ sinh ra trong bão tố, giờ đã thành trai tráng, lại đi bạn cho ghe đánh bắt xa bờ, vững tin biển cả bao dung cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Giông bão qua đi, những con tàu ở làng biển Khánh Hội lại rẽ sóng ra khơi.
Giông bão qua đi, những con tàu ở làng biển Khánh Hội lại rẽ sóng ra khơi.

1. Chúng tôi tìm đến ấp 7, xã Khánh Hội, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau, nơi người ta vẫn thường gọi là “làng góa phụ”. Nơi đây có số đàn ông tử nạn trong cơn bão số 5 (tháng 10-1997) nhiều nhất xã, bỏ lại những người vợ, người mẹ ngày đêm mong nhớ. Sau cơn bão, hằng ngày người ta vẫn bắt gặp hình ảnh của những người vợ, người mẹ lần mò ra cửa biển Khánh Hội đứng đợi chồng, đợi con đến chiều tối mới thơ thẩn trở về trong niềm đau tuyệt vọng. Theo chỉ dẫn của người dân, để vào ấp 7, chúng tôi phải thuê đò dọc chở vào. Đến bến đò tại đầu kinh ấp 7, thuê đò của một người phụ nữ tên Trang. Là dân gốc biển nên chị Trang biết rõ từng ngôi nhà ở làng biển này, chị cho biết, sau cơn bão số 5, chỉ riêng ấp 7 đã có hàng trăm người phụ nữ trong các gia đình ở xóm biển nghèo này phải đội khăn tang khóc chồng. Nhiều đứa con còn chưa kịp biết mặt cha. Nghe câu chuyện của góa phụ Lê Thị Mỹ Dung, 38 tuổi, có chồng là Võ Minh Thành chết trong cơn bão số 5, không tìm thấy xác mà lòng chúng tôi se thắt lại. Nhìn gương mặt khắc khổ, làn da cháy sạm vì làm lụng vất vả của góa phụ, chúng tôi hiểu được phần nào nỗi cơ cực của những người vợ ở xóm biển nghèo khi những người chồng, người cha “trụ cột” của gia đình đã vĩnh viễn đi xa.

Chuyện làng biển nơi cuối trời Tổ quốc ảnh 1

Trẻ em làng biển Khánh Hội, huyện U Minh (Cà Mau).

Nhắc lại người chồng xấu số của mình, chị Dung nấc nghẹn. Chúng tôi thấy có lỗi khi khơi lại quá khứ đau thương mà những “vọng phu” xóm biển cố vùi chôn trong sâu tận đáy lòng. Đôi mắt đỏ hoe chị kể, anh Thành, chồng chị là người miền trung. Hai mươi năm trước, anh Thành vào cửa biển Khánh Hội theo ghe làm mướn. Khi ấy chị mới bước qua cái tuổi 20 và cũng làm mướn cho các chủ ghe ở cửa biển này. Cuộc sống nghèo khổ đưa chị và anh Thành xích lại gần nhau. Cảm thông, chia sẻ rồi tình yêu đơm hoa kết trái, để đi đến quyết định về sống chung với nhau. Đám cưới nghèo chỉ có mâm cơm cúng ông bà, vài ba người khách là bạn đi biển của anh Thành đến uống rượu chúc mừng. Sau ngày cưới, anh chị được người dân địa phương cho mượn miếng đất cất nhà để ở. Chồng đi biển, vợ làm mướn trên bờ. “Cuộc sống tuy có nghèo khổ nhưng hạnh phúc lắm. Ngày biết tui có thai, anh Thành mừng lắm. Ảnh chạy qua nhà dì Sáu hàng xóm khoe tin mình sắp được làm cha. Chiều 22-9-1997, anh Thành được bạn đến kêu đi biển. Trước khi đi, anh ấy còn nói, chuyến biển này về có tiền sẽ mua cái mùng mới để khi tui sinh con ra khỏi phải ngủ mùng cũ vì sợ muỗi cắn con. Vậy mà…!”, chị Dung nghẹn ngào bỏ lửng câu chuyện trong nước mắt. “Sau khi cơn bão đi qua, tui cứ chờ đợi mãi hổng thấy ảnh về nhưng vẫn nuôi hy vọng. Con còn chưa biết mặt cha mà sao ảnh nỡ đi xa bỏ mẹ con tui ở lại. Sau nhiều tháng ra biển đón chồng mà vẫn bặt vô âm tín, tui trở về làm đám ma cho chồng mà trong quan tài trống rỗng. Do không tìm thấy xác chồng cho nên tui đành mang những chiếc áo quần cũ của chồng còn mùi nắng biển bỏ vào trong quan tài đem chôn. Nhà nghèo đến mức hồi cưới nhau không có chụp tấm hình làm kỷ niệm. Khi ảnh mất cũng không có để rửa ảnh thờ cho con nhìn mặt cha nó”, góa phụ trải lòng.

Phó ban nhân dân ấp 7 Ngô Quốc Việt cho biết, xóm biển nghèo này còn rất nhiều hoàn cảnh bi thương tương tự. Trường hợp của chị Trần Thị Lan, chị Nguyễn Kiều Thương… cũng là những người vợ đã bị cơn thịnh nộ của biển cướp mất chồng, tần tảo một mình nuôi con. Rưng rưng nước mắt, chị kể, chồng chị là anh Nguyễn Văn Út mất trong chuyến đi biển định mệnh năm đó. “Ngày ảnh đi biển, tui mang thai đứa con đầu lòng sắp tới ngày sinh nở. Tui như chết đứng khi hay tin ảnh đã mất tích ngoài biển khơi. Sinh con ra trong những ngày tháng đau khổ, buồn tủi ấy cho nên tui đặt tên con là Nguyễn Bão Biển, như là một lời ghi nhớ về người chồng bạc số và sự nghiệt ngã của chính cuộc đời mình. Dẫu đã 17 năm trôi qua, nhưng mẹ con tui luôn hy vọng và mong đợi một ngày nào đó ảnh sẽ trở về”, chị Thương thổ lộ.

2. Bà Trần Thị Lánh, mẹ chị Thương nhớ lại khi hay tin bão dữ đang hoành hành trên Biển Đông thì con gái bà cũng lên cơn đau bụng dữ dội. Bà mẹ già giải thích, có thể do lo sợ cho tính mạng chồng nó đang nằm trong vùng nguy hiểm của cơn giông bão nên con Thương bị sốc mới lên cơn đau bụng. Lúc này, trong đất liền gió mưa cũng quần thảo tơi bời, lỡ mà bà mẹ trẻ hạ sinh lúc này thì không biết kiếm đâu ra người đỡ đẻ. “Giông bão qua rồi, con nhỏ cứ ngày ngóng đêm trông khóc đến sưng cả mắt vì lo sợ cho chồng. Ngày nào nó cũng mang cái bụng bầu lội bộ hơn bảy cây số ra cửa biển Khánh Hội ngóng tin chồng, từ hừng đông tới khi chiều tối mới lẩn thẩn về nhà. Tới bây giờ nó vẫn tin rằng chồng nó sẽ trở về, một ngày nào đó”, bà Lánh nói. Ông Ngô Quốc Việt cho biết, sau cơn bão số 5, hầu hết những gia đình ở ấp 7 làng biển Khánh Hội đều mất đi “trụ cột”. Nhiều người vợ sau mấy tháng liền ra biển chờ chồng nhưng vô vọng thì lặng lẽ rời khỏi vùng đất đau buồn nghèo khó này đi nơi khác mưu sinh. Một số góa phụ vẫn quyết bám lại mảnh đất nằm bên mép biển này để nuôi con và nuôi hy vọng một ngày nào đó, phép mầu sẽ đem người chồng của họ, người cha của những đứa trẻ trở về quây quần bên mái tranh nghèo. Mảnh đất này vốn là nơi tạm cư của dân nghèo tứ xứ, ngó mặt ra Biển Đông đêm ngày nghe sóng biển thét gào. Cho nên, nơi đây không lý tưởng cho người dân bản xứ, mà hầu hết là lưu dân đến bám biển mưu sinh. Khi những người đàn ông nơi đây đã vĩnh viễn nằm lại dưới biển, thì có những người đàn ông dạt từ nơi khác tới. Rồi họ chắp vá cuộc đời với những góa phụ và tiếp tục mưu sinh trên đầu ngọn sóng. Nhiều người vợ lau khô nước mắt khóc chồng, họ vừa tìm thấy niềm vui trở lại trong cuộc sống lại tiếp tục sống trong cảnh thấp thỏm âu lo. Bởi những người đàn ông mới đến xóm nghèo này nếu không đi biển cũng chẳng biết phải làm gì.

Chuyện làng biển nơi cuối trời Tổ quốc ảnh 2

Ngư dân Khánh Hội chuẩn bị ngư lưới cụ để ra khơi.

Nhưng chị Dung lại rất cứng lòng. Chị quyết một mình đi tiếp quãng đời còn lại để nuôi con dù phải sớm hôm tần tảo. Chị bảo, đứa con trai - giọt máu duy nhất của người chồng xấu số để lại chính là món quà lớn mà anh đã mang đến trong cuộc đời chị. Nếu không phải vì anh, vì con, chị đã không thể sống tiếp và vượt qua nỗi đau mất mát quá lớn của cuộc đời. Thế rồi, ngày tháng đau buồn cũng qua đi. Con trai của chị Dung với anh Thành là cháu Võ Minh Hoàng, năm nay đã 18 tuổi. Hoàng rất biết nghĩ và thương mẹ vô cùng. Không muốn nhìn thấy mẹ làm lụng cực khổ, Hoàng xin mẹ được đi biển từ năm 11 tuổi, nhưng người mẹ nhất quyết không cho. “Nghe con xin đi biển, mẹ đã khóc không cho, vì sợ biển cả sẽ mang con đi mãi giống như cha. Nhưng con đã trốn đi, hơn hai tháng sau mới trở về. Hai mẹ con ôm nhau khóc”, Hoàng thổ lộ. Ở làng biển này, có nhiều đứa trẻ khi sinh ra đều có điểm chung là không biết mặt cha. Sau cơn bão tố, mỗi đứa mỗi cảnh, cuộc đời lũ trẻ cũng chia nhiều ngã rẽ khác nhau. Như bé Nguyễn Bão Biển, được ngoại rước về nuôi, lo cho ăn học. Còn những đứa trẻ như Hoàng, vẫn ngày ngày cùng mẹ, đối mặt biển khơi. “Mẹ rất thương con, sau mỗi chuyến con ra khơi trở về mẹ lại ôm con vào lòng, xoa đầu rồi bảo con giống cha. Nhưng con không hình dung ra được cha của con như thế nào, mặc dù không biết bao nhiêu chuyện mẹ kể về cha. Cho dù cố tưởng tượng con cũng không thể hình dung ra cha như thế nào cho nên con quyết đi biển để tìm cha”, Hoàng tâm sự.

3. Bão tố qua đi, quá khứ đau thương cũng lùi xa vào ký ức. Những con tàu từ làng biển Khánh Hội lại rẽ sóng ra khơi. Nghề đánh bắt xa bờ ở nơi đây dần được khôi phục. Người dân làng biển mỗi sáng tinh mơ lại rộn ràng đón những mẻ cá tinh tươm từ những con tàu vừa cập bến. Tiếng nói cười chan chứa niềm tin. Những đứa trẻ ngày nào như Hoàng lại theo ghe đi bạn, bám biển mưu sinh và vững tin vào biển cả bao dung cho cuộc sống của làng biển nơi cuối trời Tổ quốc sẽ no ấm, hạnh phúc.