Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân:

Hãy chia sẻ mạo hiểm cùng các nhà khoa học

“Chúng ta không nên buộc các nhà khoa học giỏi phải trở thành những doanh nhân giỏi. Dù làm khoa học hay kinh doanh thì cả hai công việc đều đòi hỏi những tố chất và kinh nghiệm riêng biệt. Nếu cố tình làm như vậy, rất có thể chúng ta sẽ làm mất đi một nhà khoa học giỏi và tạo ra một doanh nhân tồi”. Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ (KH-CN) Nguyễn Quân đã trả lời phỏng vấn của Nhân Dân hằng tháng chung quanh những vấn đề của chuyên đề Đổi chất xám thành tiền.

Hãy chia sẻ mạo hiểm cùng các nhà khoa học

CHÚNG TA CÓ ĐIỀU KIỆN ĐỂ “ĐỨNG TRÊN VAI NHỮNG NGƯỜI KHỔNG LỒ”

Thưa Bộ trưởng Nguyễn Quân, trong hai lĩnh vực nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, thì hướng phát triển khoa học nào quan trọng và phù hợp hơn với Việt Nam? Định hướng của cơ quan quản lý về vấn đề này như thế nào?

Nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng là hai lĩnh vực có mối quan hệ chặt chẽ, tương hỗ lẫn nhau. Trong khi nghiên cứu cơ bản có nhiệm vụ đặt nền tảng cho mọi hoạt động KH-CN thì nghiên cứu ứng dụng sử dụng tri thức cơ bản để phát triển các công nghệ và kỹ thuật mới phục vụ cuộc sống. Vì vậy, khó có thể nói lĩnh vực nào quan trọng hơn. Tuy nhiên, khác với khoa học ứng dụng, nơi có nhiều “hàng rào” tồn tại dưới hình thức bí quyết công nghệ được bảo hộ, khoa học cơ bản có độ mở cao hơn rất nhiều. Đây là một điều kiện thuận lợi đối với một nước có nền khoa học “đi sau” như Việt Nam. Thay vì đổ nhiều công sức và tiền của để nghiên cứu những vấn đề mang tính học thuật “nền tảng”, chúng ta có thể tiếp cận và sử dụng các nghiên cứu cơ bản đã được thực hiện thành công trên thế giới để ứng dụng và phát triển các công nghệ của riêng mình. Nói cách khác, chúng ta đang có điều kiện để “đứng trên vai những người khổng lồ”. Chính vì vậy, bên cạnh việc quan tâm thích đáng cho việc xây dựng nền tảng khoa học quốc gia thông qua nghiên cứu cơ bản, chúng ta cần phải tập trung nguồn lực để đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng, gắn nhiệm vụ phát triển KH-CN với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Đây cũng chính là định hướng đã được thể hiện trong Chiến lược phát triển KH-CN giai đoạn 2011-2020.

Theo Bộ trưởng, đầu tư ngân sách cho KH-CN của Việt Nam hiện đáp ứng yêu cầu phát triển hay chưa?

Khoản kinh phí dành cho nghiên cứu và triển khai sẽ được phân bổ hợp lý theo nguyên tắc đầu tư tới ngưỡng cho một số nhiệm vụ KH-CN trọng điểm, có ý nghĩa quan trọng nhất đối với sự phát triển chung của đất nước, thí dụ như Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia, Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia...

Hiện nay đầu tư cho KH-CN vẫn chủ yếu là từ ngân sách nhà nước và mức 2% tổng chi ngân sách hằng năm là một tỷ lệ khá cao, kể cả so với các quốc gia có nền khoa học tiên tiến. Tuy nhiên, quy mô nền kinh tế nước ta còn nhỏ nên giá trị tuyệt đối của 2% vẫn là rất thấp, chỉ khoảng 800 triệu đô-la trong những năm gần đây. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, để có một nền KH-CN phát triển thì không thể chỉ dựa vào ngân sách nhà nước. Có thể lấy một thí dụ là Hàn Quốc, quốc gia đã thực hiện thành công “Kỳ tích sông Hàn” nhờ tập trung nguồn lực cho KH-CN, ngân sách chỉ chiếm khoảng 10% trong tổng đầu tư cho KH-CN, phần còn lại hầu hết đến từ các tập đoàn kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp. Như vậy có thể thấy, nếu không có các chính sách thu hút đầu tư của doanh nghiệp thì ngân sách nhà nước dù lớn đến mức nào cũng không đáp ứng được nhu cầu phát triển của KH-CN.

Có nhà khoa học nói rằng, với số tiền đó mà đầu tư dàn trải thì các nhà khoa học chỉ có mà “húp cháo”. Vậy theo Bộ trưởng, chúng ta nên ưu tiên đầu tư ngân sách vào những lĩnh vực nào?

Tôi đồng tình với quan điểm của nhà khoa học nêu trên về vấn đề đầu tư dàn trải. Kinh phí từ ngân sách nhà nước mặc dù rất ít ỏi, nhưng đang bị dàn trải và phân bổ không hợp lý. Có đến gần 90% ngân sách cho KH-CN là dành cho chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, tức là chi lương và hoạt động bộ máy của hệ thống hơn 1.000 tổ chức KH-CN công lập từ Trung ương đến địa phương và gần 100.000 cán bộ biên chế trong các đơn vị này. Chỉ có khoảng trên 10% của 2% tổng chi ngân sách là thực sự dành cho hoạt động nghiên cứu và triển khai.

Để thay đổi tình hình, Bộ KH-CN đã đề xuất với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và đang phối hợp với các bộ liên quan để điều chỉnh giảm dần tỷ lệ chi cho đầu tư phát triển, tăng tỷ lệ chi sự nghiệp KH-CN từ nay đến 2020. Đồng thời, chúng tôi cũng đang xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch các tổ chức KH-CN công lập, hướng tới hỗ trợ tập trung cho những đơn vị thực sự cần thiết và hoạt động hiệu quả, để giảm gánh nặng cho ngân sách. Khoản kinh phí dành cho nghiên cứu và triển khai sẽ được phân bổ hợp lý theo nguyên tắc đầu tư tới ngưỡng cho một số nhiệm vụ KH-CN trọng điểm, có ý nghĩa quan trọng nhất đối với sự phát triển chung của đất nước, thí dụ như Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia, Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia...

CHỦ ĐỘNG ĐẶT HÀNG NHÀ KHOA HỌC

Xin Bộ trưởng cho biết cụ thể hơn về thực trạng các công trình nghiên cứu ứng dụng nhưng lại không được ứng dụng tại Việt Nam hiện nay? Để một công trình khoa học được ứng dụng trong thực tế, chúng ta nên có giải pháp gì?

Đúng là trong thực tế, việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu của chúng ta còn nhiều hạn chế. Trước đây các nhiệm vụ KH-CN thường được xác định theo phương thức đề xuất từ cơ sở. Những đề xuất đó nhiều khi chưa bám sát thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội nên không được thị trường đón nhận. Ngoài ra, những lúng túng trong việc xác định giá trị tài sản trí tuệ, thiếu cơ chế giao quyền sở hữu và sử dụng kết quả nghiên cứu có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, thiếu các định chế trung gian để kết nối cung cầu công nghệ,... cũng là những nguyên nhân góp phần hạn chế việc thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Những bất cập này đã được Bộ KH-CN tổng kết và khắc phục thông qua các nội dung cụ thể được quy định tại Luật Khoa học và công nghệ mới, có hiệu lực từ ngày 1-1-2014 tới đây. Trong đó, giải pháp quan trọng nhất là quy định thực hiện cơ chế đặt hàng đối với việc xác định các nhiệm vụ KH-CN. Nghĩa là, các bộ, ngành, địa phương chủ động đặt hàng các nhà khoa học nghiên cứu những vấn đề phục vụ trực tiếp cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, ngành, địa phương hoặc giải quyết những vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn cuộc sống. Cơ quan nào đề xuất đặt hàng thì phải cam kết tiếp nhận kết quả nghiên cứu và chịu trách nhiệm tổ chức việc đưa kết quả nghiên cứu vào sản xuất, kinh doanh. Vấn đề tiếp theo là cho phép và có quy định cụ thể thẩm quyền, thủ tục giao quyền sở hữu kết quả nghiên cứu có nguồn gốc ngân sách nhà nước cho tổ chức KH-CN và nhà khoa học, để họ có thể chuyển nhượng cho doanh nghiệp, góp vốn vào doanh nghiệp hoặc trực tiếp thành lập doanh nghiệp KH-CN, sản xuất kinh doanh trên cơ sở kết quả nghiên cứu của chính họ...

Từ cách đây 10 năm Quỹ Phát triển KH-CN quốc gia đã được thành lập nhằm hỗ trợ các nhà khoa học trong nghiên cứu cơ bản. Thưa Bộ trưởng, vậy việc thành lập Quỹ Đổi mới công nghệ với vốn điều lệ 1.000 tỷ đồng mới đây phải chăng là giải pháp để khuyến khích phát triển khoa học ứng dụng ở Việt Nam?

Đúng vậy. Sự thành lập của Quỹ Phát triển KH-CN quốc gia năm 2003 đã tạo bước phát triển đột phá cho hoạt động nghiên cứu cơ bản của nước ta, với số lượng các công trình được công bố quốc tế tăng nhanh so với giai đoạn trước đây, trung bình khoảng 20-25%/năm. Thành công của Quỹ Phát triển KH-CN quốc gia là một kinh nghiệm tốt để chúng tôi tiếp tục xây dựng Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia. Như tên gọi, Quỹ này có mục tiêu hỗ trợ và thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ, với trọng tâm là doanh nghiệp, thông qua việc tài trợ, cho vay với lãi suất ưu đãi hoặc bảo lãnh vốn vay cho hoạt động đổi mới công nghệ. Chúng tôi tin tưởng rằng Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia sẽ đánh dấu một bước phát triển mới đối với hoạt động đổi mới sáng tạo, huy động được sự đầu tư của doanh nghiệp trong các dự án đổi mới công nghệ được nhà nước hỗ trợ. Bên cạnh đó, chúng tôi còn khuyến khích hoạt động nghiên cứu ứng dụng thông qua việc xây dựng hệ thống 10 chương trình quốc gia về KH-CN, và mới đây nhất là Dự án “Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu, khoa học và công nghệ” (FIRST) vừa được Bộ KH-CN khởi động vào ngày 7-11 vừa qua với vốn vay ưu đãi 100 triệu USD từ Ngân hàng Thế giới.

Theo Bộ trưởng, biến nhà khoa học trở thành doanh nhân tốt hơn, hay tạo điều kiện để nhà khoa học liên kết với nhà đầu tư tốt hơn?

Bài học kinh nghiệm là chúng ta cần phải coi KH-CN thực sự là cứu cánh cho nền kinh tế, cho phát triển bền vững của doanh nghiệp, từ đó xác định định hướng nghiên cứu và phát triển phù hợp với nhu cầu phát triển và đầu tư một cách tương xứng cho hoạt động KH-CN, và đặc biệt là phải có tầm nhìn dài hạn, không nản lòng trước những khó khăn, thất bại trước mắt.

Tôi tin nhiều người sẽ đồng ý với quan điểm của tôi rằng, chúng ta không nên buộc các nhà khoa học giỏi phải trở thành những doanh nhân giỏi. Dù làm khoa học hay kinh doanh thì cả hai công việc đều đòi hỏi những tố chất và kinh nghiệm riêng biệt. Nếu cố tình làm như vậy, rất có thể chúng ta sẽ làm mất đi một nhà khoa học giỏi và tạo ra một doanh nhân tồi. Tất nhiên vẫn có một số nhà khoa học có tinh thần doanh nghiệp, họ có thể trực tiếp điều hành doanh nghiệp KH-CN để sản xuất kinh doanh chính sản phẩm khoa học của họ, và nhà nước vẫn khuyến khích và ưu đãi họ. Cách tốt hơn cả là chúng ta tạo ra những phương thức để liên kết nhà khoa học với doanh nghiệp. Đề án thương mại hóa công nghệ theo mô hình Thung lũng Silicon vừa khởi động là một trong những phương thức tạo mối liên kết như vậy. Theo mô hình này, các nhà khoa học có ý tưởng và giải pháp công nghệ đột phá có thể tìm được sự quan tâm của những nhà đầu tư sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm để thương mại hóa kết quả nghiên cứu của mình, nếu thất bại thì cùng chia sẻ rủi ro, và nếu thành công thì cùng chia sẻ lợi nhuận.

ĐẦU TƯ CHO KHOA HỌC PHẢI CÓ TẦM NHÌN DÀI HẠN

Đầu tư cho nghiên cứu khoa học có bao giờ lỗ không, thưa Bộ trưởng?

Một nghiên cứu khoa học cụ thể có thể lỗ về mặt kinh tế nhưng chắc chắn sẽ mang lại những giá trị nhất định về học thuật. Chẳng hạn như nghiên cứu cơ bản, mặc dù không sinh ra lợi nhuận ngay, nhưng là hoạt động kiến tạo tri thức mới, tiềm ẩn lợi nhuận cho các ngành công nghiệp trong tương lai. Trong khi đó nghiên cứu ứng dụng lại có tính rủi ro cao, có thể thành công hoặc thất bại. Tuy nhiên, nghiên cứu khoa học là hoạt động có tính kế thừa, tích lũy. Các nghiên cứu thành công đều dựa trên kết quả của rất nhiều thử nghiệm khoa học, kể cả các thất bại trước đó. Do vậy, chúng ta không thể lấy kết quả của một số nghiên cứu cụ thể để xem xét hiệu quả tài chính của việc đầu tư cho nghiên cứu khoa học. Tất nhiên, như mọi hoạt động đầu tư khác, đầu tư cho nghiên cứu khoa học chỉ có thể có hiệu quả nếu có định hướng đúng đắn, có trọng tâm và tới ngưỡng.

Thực tế ở Việt Nam, ông đã chứng kiến những đầu tư nghiên cứu nào mang lại lợi nhuận nhanh và lớn nhất?

Hãy chia sẻ mạo hiểm cùng các nhà khoa học ảnh 1

Dự án thiết kế chế tạo giàn khoan tự nâng 90m nước của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam.

Tôi có thể kể ngay đến một điển hình về thành công của việc đầu tư cho KH-CN là dự án thiết kế chế tạo giàn khoan tự nâng 90m nước của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam. Đây là dự án KH-CN cấp nhà nước lớn nhất được Bộ KH-CN hỗ trợ 118 tỷ đồng, sau hai năm đã thành công, tiết kiệm hàng trăm tỷ đồng so với nhập khẩu. Nhưng điều quan trọng hơn là dự án này đưa Việt Nam trở thành một trong 10 quốc gia chế tạo được giàn khoan này trên thế giới, đã hạ thủy thành công và góp phần khẳng định chủ quyền quốc gia trên Biển Đông. Có thể kể thêm nhiều thí dụ khác, như nghiên cứu sản xuất thành công các loại vắc-xin phục vụ chương trình tiêm chủng mở rộng, phầm mềm an ninh mạng và tìm kiếm tiếng Việt trên internet... Những thành tựu này không chỉ có giá trị lớn về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa quan trọng về chính trị - xã hội đối với đất nước.

Theo Bộ trưởng, bài học kinh nghiệm nào cho các đơn vị, doanh nghiệp khi đầu tư cho nghiên cứu khoa học?

Bài học kinh nghiệm là chúng ta cần phải coi KH-CN thực sự là cứu cánh cho nền kinh tế, cho phát triển bền vững của doanh nghiệp, từ đó xác định định hướng nghiên cứu và phát triển phù hợp với nhu cầu phát triển và đầu tư một cách tương xứng cho hoạt động KH-CN, và đặc biệt là phải có tầm nhìn dài hạn, không nản lòng trước những khó khăn, thất bại trước mắt.

Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!