Ðại học không vì lợi nhuận, từ nhận diện đến thực thi

Một điểm nổi bật của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (gọi tắt Luật GDÐH sửa đổi) vừa được Quốc hội thông qua (có hiệu lực từ ngày 1-7-2019) là những thay đổi liên quan tới khung pháp lý dành cho trường đại học (ÐH) không vì lợi nhuận (KVLN). Ðây cũng là điểm mới quan trọng cần được lưu ý khi đưa Luật vào thực thi.

Ðại học không vì lợi nhuận, từ nhận diện đến thực thi

Trong hai thập niên qua, các nhà làm luật ở Việt Nam đã phải chịu đựng áp lực lớn của dư luận trong việc tạo ra một khuôn khổ pháp lý cho trường ÐH tư KVLN cho Việt Nam. Tuy đã có Nghị định, quyết định được ban hành từ nhiều năm, nhưng trong thực tế vẫn còn nhiều khoảng trống bất cập. Vì thế, Luật GDÐH (sửa đổi) lần này chứa đựng những thay đổi rất đáng kể đối với vấn đề vì lợi nhuận hay KVLN.

Ðiểm khác biệt quan trọng giữa Luật GDÐH sửa đổi và các văn bản trước đó trong vấn đề mô hình quản trị, là lần này các nhà làm luật đã tạo điều kiện để tách “sở hữu” ra khỏi “quản trị và điều hành”, nếu muốn. Tuy nhiên, nó không hạn chế việc những người sở hữu đồng thời thực thi cả vai trò quản trị và điều hành như từ trước đến nay. Nhìn chung, tinh thần của luật vẫn là trao quyền tối đa cho nhà đầu tư, tương tự như mô hình quản trị của các doanh nghiệp (DN). Dù có là KVLN hay không, tiếng nói tối hậu trong việc thiết lập Hội đồng trường vẫn là tiếng nói của nhà đầu tư, tuy mức độ có khác nhau giữa hai loại hình vì lợi nhuận và KVLN.

Luật GDÐH sửa đổi không phân biệt trường vì lợi nhuận hay KVLN trong vấn đề tài sản. Nguyên tắc chung được xác lập là tài sản Nhà nước giao bao gồm quyền sử dụng đất phải được quản lý, sử dụng theo quy định về tài sản công; không được chuyển thành sở hữu tư nhân dưới bất cứ hình thức nào. Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đối với tài sản khác của Nhà nước phải theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển; việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất được thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai. Tài sản được viện trợ, tài trợ, hiến tặng và tài sản khác được pháp luật quy định là tài sản chung hợp nhất không phân chia, thuộc sở hữu của cộng đồng nhà trường, do hội đồng đại học hoặc hội đồng trường đại diện quản lý; không được chuyển thành sở hữu tư nhân. Trong trường hợp chuyển nhượng vốn của cơ sở GDÐH thì tài sản chung hợp nhất không phân chia không được tính vào giá trị tài sản được định giá của cơ sở GDÐH.

Trong trường hợp giải thể cơ sở GDÐH, tài sản chung hợp nhất không phân chia được coi là tài sản chung của cộng đồng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý, sử dụng cho mục đích phát triển GDÐH. Ngoài các khoản này, cơ sở GDÐH có quyền tự quyết định việc quản lý, sử dụng, định đoạt và tự chịu trách nhiệm theo quy định của Luật Doanh nghiệp (Khoản 2, Ðiều 67).

Như vậy nghĩa là Luật đã mở đường để Nhà nước và các tổ chức, cá nhân hỗ trợ cho trường ÐH tư cho dù là vì lợi nhuận hay KVLN. Tài sản có nguồn gốc là tài sản công thì không được biến thành tài sản tư, tài sản hiến tặng được coi là tài sản chung của cộng đồng nhà trường, không phải của nhà đầu tư, và trong trường hợp giải thể thì được xem như tài sản công. Quy định như vậy là hợp lý và nhất quán với thực tiễn quốc tế.

Những phân tích trên đây cho thấy, không có nhiều khác biệt đáng kể giữa các trường vì lợi nhuận và KVLN ở Việt Nam, xét về phương diện pháp lý. Khác biệt lớn nhất có lẽ là chênh lệch thu - chi của trường KVLN không được chia cho các nhà đầu tư mà phải xem là tài sản hợp nhất không phân chia. Tuy nhiên điều này trong thực tế không có nhiều ý nghĩa, vì có nhiều giải pháp kỹ thuật để xử lý việc đó. Thí dụ như lập các công ty con, công ty sân sau để giải quyết việc phân chia và sử dụng lợi nhuận. Luật cũng không cấm các nhà đầu tư tham gia vào việc quản lý điều hành, kiêm nhiệm các vai trò Hội đồng trường và quản lý cấp cao, cũng không hạn chế mức lương của các vị trí đó. Vì thế, hạch toán để chênh lệch thu chi bằng không chỉ là vấn đề kỹ thuật mà thôi.

Nhìn ra bên ngoài, chúng ta có thể thấy một thực tế là các trường đại học lừng danh trên thế giới thường là các trường đại học công và các trường tư KVLN, còn các trường vì lợi nhuận thì thường phải hứng chịu cái nhìn không mấy thiện cảm của công chúng, bị coi là “tội phạm” của thương mại hóa giáo dục, hy sinh chất lượng cho lợi nhuận. Tuy nhiên, điều này đang thay đổi khi mà cả các trường công và trường tư KVLN cũng đều đang bị thương mại hóa dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Trường KVLN ở các nước phát triển có thể tạo ra những thành tựu đáng kể là vì nó thu hút một nguồn lực khổng lồ qua quỹ hiến tặng, đó là điều chưa có ở Việt Nam.

Có thể trong những giai đoạn phát triển sắp tới, sẽ đến một thời điểm nào đó mà chúng ta cần có những trường KVLN thật sự như mô hình phương Tây, nhưng rõ ràng là hiện nay, trong bối cảnh thực tế về chính trị và văn hóa hiện tại, thì cách xử lý của luật có thể xem là phù hợp.

Với cách xử lý đó, có lẽ người học cũng không cần phải quan tâm nhiều đến cương vị vì lợi nhuận hay KVLN của các trường. Ðiều quan trọng hơn là nhìn vào những việc các trường làm, và kết quả mà nó đem lại cho người học.

Sớm đồng bộ các văn bản dưới luật

Luật GDÐH (sửa đổi) là luật chuyên ngành, có khá nhiều nội dung trong luật giao cho Chính phủ quy định chi tiết như quy hoạch mạng lưới, thành lập Hội đồng trường, thành lập phân hiệu của các cơ sở GDÐH, bằng cấp và trình độ tương đương... Vì thế, sau khi xây dựng các hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành luật, Chính phủ cần tổ chức phổ biến rộng rãi trong xã hội, đặc biệt đối với các đối tượng chịu tác động và điều chỉnh của luật. Tránh tình trạng luật đã có hiệu lực nhưng vẫn phải chờ văn bản dưới luật để thực thi khiến các địa phương, cơ sở giáo dục lúng túng, chưa áp dụng luật kịp thời, hiệu quả.

Nguyễn Lê Ðình Quý

(Viện Chính sách công và Quản lý)