Trước tình hình đại dịch Covid-19 lan ra toàn cầu, nhiều công dân Việt Nam ở nước ngoài có nguyện vọng về nước nhưng đã lâm vào tình thế mắc kẹt khi các hãng hàng không ngừng vận chuyển, nhiều quốc gia đóng cửa biên giới. Trong các tình huống khẩn cấp như vậy, các cán bộ ngoại giao đã vào cuộc như thế nào để hỗ trợ, giúp đỡ đồng bào gặp khó khăn, thưa đồng chí?
Bộ Ngoại giao đã nhanh chóng chỉ đạo các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài khẩn trương vào cuộc, thiết lập đường dây nóng bảo hộ công dân hoạt động 24/7, kịp thời thăm hỏi bà con ở sân bay, hỗ trợ nhu yếu phẩm, triển khai các thủ tục vận tải với chính quyền sở tại... Mặt khác, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Ngoại giao cũng phối hợp với các cơ quan chức năng như Bộ Giao thông vận tải, Bộ Y tế, Bộ Quốc phòng tổ chức các chuyến bay chở hàng kết hợp đưa người nước ngoài mắc kẹt tại Việt Nam về nước họ và đón công dân Việt Nam ở nước ngoài trở về. Giai đoạn đầu, chúng ta đã tổ chức và đưa được gần 1.500 người dân mắc kẹt ở các sân bay về nước. Tiếp đó, Chính phủ chủ trương xây dựng kế hoạch tổ chức các chuyến bay đến một số nước đón bà con có nhu cầu cấp thiết trở về nước, đặc biệt quan tâm tới những người có hoàn cảnh khó khăn như trẻ em dưới 18 tuổi, học sinh, sinh viên bị đóng cửa ký túc xá không có nơi ăn ở, người trên 60 tuổi; người có bệnh lý nền, người đi công tác ngắn hạn, hết hạn hợp đồng lao động, mất việc... Từ 10-4 tới nay, sau khi Chính phủ phê duyệt chủ trương đưa người về, chúng ta đã tổ chức 13 chuyến bay đến 12 quốc gia, đón được khoảng 2.900 công dân về nước (số liệu cập nhật đến 15 giờ ngày 14-5). Hiện nay, nhu cầu về nước của bà con còn rất lớn, nhưng chúng ta chưa có điều kiện để đưa toàn bộ bà con về vì các chuyến bay cũng phải phù hợp với khả năng tiếp nhận cách ly và hỗ trợ y tế trong nước. Đối với những công dân còn chưa thể trở về, các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài thường xuyên giữ liên hệ với bà con, làm việc với chính quyền sở tại, đề nghị họ có chính sách bảo đảm cho công dân ta và hỗ trợ y tế trong trường hợp cần thiết. Thời gian tới, chúng ta tiếp tục thu xếp một số chuyến bay thương mại tới các nước để đón công dân có nhu cầu đặc biệt cần thiết trở về nhưng chỉ với số lượng hạn chế, phù hợp với khả năng tiếp nhận ở trong nước và thực hiện cách ly tập trung.
Theo Bộ Ngoại giao thì công tác bảo hộ công dân trong đại dịch lần này so với những hoạt động bảo hộ công dân từ các điểm nóng quốc tế như chúng ta đã từng thực hiện có gì khác? Các cơ quan ngoại giao ở nước ngoài đã gặp phải những khó khăn, thách thức gì, biện pháp khắc phục ra sao, thưa đồng chí?
Đại dịch Covid-19 lần đầu tiên xảy ra và chưa ai có hiểu biết đầy đủ về nó, ở cả mức độ lây lan, cũng như tính chất nguy hiểm và tác động sâu rộng đến toàn thế giới. Điều này khiến công tác bảo hộ công dân gặp rất nhiều khó khăn, nảy sinh các tình huống chưa từng có như mắc kẹt tại sân bay, đóng cửa biên giới, điều kiện y tế các nước khác nhau, Chính phủ các nước cũng phải tập trung lo cho người dân của họ... Trong dịch bệnh lần này, các cán bộ ngoại giao, đặc biệt cán bộ làm công tác lãnh sự, bảo hộ công dân tại các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đã trở thành những chiến sĩ trên tuyến đầu chống dịch, họ phải ra sân bay gặp gỡ động viên, hỗ trợ bà con, đi tiếp xúc làm việc với các cơ quan chức năng sở tại và cũng đối mặt với nguy cơ lây nhiễm cao... Thực tế, đã có những cán bộ ngoại giao bị lây nhiễm, hoặc tiếp xúc với những người mang mầm bệnh nên phải tự cách ly, trong đó có cả đại sứ hay trưởng cơ quan đại diện.
Không chỉ bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài, chúng ta còn có chính sách giúp đỡ, hỗ trợ công dân nước ngoài mắc kẹt ở Việt Nam, thưa đồng chí?
Chủ trương nhất quán của Đảng, Chính phủ và Ban chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch là tạo điều kiện và hỗ trợ y tế cho cả người nước ngoài, nếu bị nhiễm bệnh sẽ được điều trị tích cực. Một số người nước ngoài ở Việt Nam dương tính với Covid-19 đã được các cơ sở y tế của ta chăm sóc, chữa trị tích cực, đến nay về cơ bản hầu hết mọi người đã bình phục, trở về nước họ an toàn. Nhiều người gửi lời cảm ơn, bày tỏ sự cảm kích với Việt Nam... Ngoài ra còn số lượng người nước ngoài đi du lịch, thăm thân bị kẹt ở Việt Nam do các nước dừng chuyến bay. Thực hiện chủ trương của Chính phủ, Bộ Ngoại giao phối hợp với các cơ quan chức năng liên quan tạo điều kiện để đưa số người này về nước. Các cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam ghi nhận những việc làm thiết thực của chúng ta và đánh giá rất cao tinh thần trách nhiệm, tính nhân văn của Việt Nam trong công cuộc phòng, chống đại dịch lần này.
Việt Nam đã có sự chủ động tích cực như thế nào trong việc phối hợp, hợp tác với các nước, nhất là các nước ASEAN và đối tác trong việc ứng phó, kiềm chế dịch bệnh, thưa đồng chí?
Truyền thống nhân văn, tương thân tương ái của Việt Nam luôn được phát huy, một mặt chúng ta nỗ lực phòng, chống dịch trong nước, mặt khác chia sẻ, hợp tác với các nước bị tác động mạnh của dịch bằng nhiều hình thức như lãnh đạo cấp cao của Chính phủ, Bộ Ngoại giao điện đàm thăm hỏi và trao đổi hợp tác với các nước. Tới nay có khoảng 23 cuộc điện đàm thăm hỏi, trong đó có nhiều cuộc Thủ tướng trực tiếp điện đàm thăm hỏi nguyên thủ và người đứng đầu chính phủ các nước láng giềng, các nước trong ASEAN hoặc các nước lớn, các đối tác truyền thống, các nước chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh. Lãnh đạo ta cũng đã tham gia 13 hội nghị, trao đổi quốc tế phòng, chống dịch; viện trợ trang thiết bị y tế cho 15 nước, hai tổ chức quốc tế; xuất khẩu trang thiết bị y tế đến 19 nước; đồng thời cũng tiếp nhận viện trợ của tám nước và tổ chức quốc tế. Trong khu vực ASEAN, trên tinh thần gắn kết, chủ động, thích ứng, Việt Nam đã tích cực phát huy vai trò nước Chủ tịch của mình, thể hiện ở việc sớm ra tuyên bố Chủ tịch, sớm triệu tập họp Hội nghị điều phối chung trong ASEAN, thành lập Nhóm công tác liên ngành cấp Thứ trưởng về ứng phó với các tình huống y tế công cộng khẩn cấp. Việt Nam đã kiến nghị và tổ chức các Hội nghị Cấp cao Đặc biệt ASEAN và Cấp cao Đặc biệt ASEAN+3 về ứng phó với dịch Covid-19; tham dự và phối hợp tổ chức các hội nghị ASEAN với các đối tác và tổ chức quốc tế như Trung Quốc, Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu (EU), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)... Thời gian tới, Việt Nam sẽ tiếp tục triển khai một số thỏa thuận cũng như kết quả đạt được trong ASEAN, như thành lập quỹ ứng phó với dịch Covid-19, thành lập kho dự trữ thiết bị y tế trong khu vực, phối hợp với các nước ASEAN xây dựng kế hoạch tổng thể chung phục hồi phát triển kinh tế sau dịch. Có thể nói, qua hoạt động hợp tác quốc tế và trong ASEAN, Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế đánh giá cao về tinh thần trách nhiệm cũng như sự chủ động, tích cực...
Đại dịch đã có ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế - xã hội của Việt Nam cũng như toàn thế giới. Theo đồng chí chúng ta có thể tận dụng được lợi thế nào để đẩy mạnh hợp tác kinh tế quốc tế trong thời gian tới?
Đã có những dự báo về sự suy thoái của kinh tế thế giới theo hướng nghiêm trọng nhất từ trước tới nay. Nhờ có sự chỉ đạo kiên quyết, đồng bộ, kịp thời và hiệu quả của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Ban chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch, sự tham gia vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự ủng hộ của toàn dân... tới nay cơ bản Việt Nam đã đẩy lùi được dịch bệnh, kiểm soát được sự lây lan trong cộng đồng. Chúng ta đã có cơ hội tạo ra hình ảnh đi đầu, một hình mẫu trong phòng, chống dịch, trở thành điểm đến an toàn cho các nhà đầu tư... Tình hình dịch bệnh trên thế giới còn diễn biến phức tạp, chúng ta vừa kiên quyết ngăn chặn nguy cơ lây nhiễm từ bên ngoài, vừa bảo đảm môi trường lành mạnh, ổn định để phát triển kinh tế, du lịch, sẵn sàng đón làn sóng đầu tư mới, đón sự chuyển dịch chuỗi cung ứng vào Việt Nam. Có một tín hiệu rất vui là trong bốn tháng đầu năm, dù dịch bệnh phức tạp nhưng nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI) của Việt Nam đã tăng 27%. Con số này thể hiện nhà đầu tư tin tưởng vào môi trường kinh doanh của Việt Nam, đánh giá tích cực hiệu quả phòng, chống dịch của Việt Nam. Hiện Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan xây dựng giải pháp tổng thể để tháo gỡ khó khăn, cải thiện môi trường đầu tư và thúc đẩy triển khai các thỏa thuận thương mại tự do đã ký như CPTPP, EVFTA... nhằm sớm phục hồi và phát triển kinh tế sau đại dịch.
Tức là Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành điểm đến an toàn tin cậy của các nhà đầu tư sau đại dịch này, thưa đồng chí?
Với những kết quả đã đạt được, Việt Nam đã thể hiện với thế giới là một đối tác có trách nhiệm, sẵn sàng chia sẻ gánh vác cùng các nước trong kiểm soát phòng, chống dịch bệnh. Chúng ta đã thành công trong giai đoạn một của cuộc chiến phòng, chống dịch với phương châm “chống dịch như chống giặc”, nay chuyển sang giai đoạn hai vừa kiểm soát dịch bệnh, vừa khôi phục phát triển kinh tế... và coi đây là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Việt Nam đã tạo được sự tin cậy với quốc tế, thể hiện mình là điểm đến an toàn, sẵn sàng đón làn sóng đầu tư, du lịch khi dịch bệnh được kiểm soát trên toàn thế giới...
Trân trọng cảm ơn đồng chí Thứ trưởng!