Nhô Sarpu, nghi lễ thiêng liêng

Trong những đêm lửa rừng bên chóe rượu cần, già làng ngậm ống píp hơ tay lên bếp lửa kể khan. Trong những lời khan vắn dài ấy lờ mờ một ấn tượng rằng, con trâu là vật tổ của các dân tộc bản địa Tây Nguyên. Có người từng đặt giả thiết: Phải chăng, do quan niệm như vậy mà nhiều sắc tộc có tục cà sát hàm răng trên để giống với vật tổ?!…

Trong ngày hội buôn làng.
Trong ngày hội buôn làng.

Nhưng dù sao thì đó cũng chỉ là giả thiết. Cái tồn tại đến ngày hôm nay là con trâu được dùng làm thứ lễ vật hiến tế quý giá nhất, vật để quy đổi các sản vật, quy định mức hình phạt, đánh giá sự giàu có của các dòng họ, các gia đình. Trong quan niệm của người Tây Nguyên: nhà có nhiều chiêng chóe, trâu bò - ấy là nhà giàu, lễ có trâu cúng tế - ấy là lễ lớn, tội bị buôn làng phạt trâu - ấy là tội trọng. Ngày xưa, cuộc sống hoang dã, gần gũi với thiên nhiên của họ với tín ngưỡng sơ khai cùng phương thức canh tác chọc lỗ tra hạt đã tạo nên cái nhìn khác đối với con trâu. Không giống như người Việt trồng lúa nước ở đồng bằng với bài ca dao lao động “Trâu ơi, ta bảo trâu này…”.

Nhô Sarpu, nghi lễ thiêng liêng -0
 Một buổi lễ Nhô Sarpu hồi giữa thế kỷ trước. Ảnh tư liệu

 Trở lại với tín ngưỡng đa thần nguyên thủy của các tộc người Tây Nguyên. Những con người (với điểm xuất phát sơ khai), cảm thấy mình nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Nhìn chung quanh, cái gì đối với họ cũng cao cả, đầy hăm dọa, từ những ngọn núi sừng sững im lìm mà bí hiểm, những thác nước hùng vĩ đổ ào ào nghìn đời không dứt, những gốc cổ thụ sum suê giữa rừng già, những đêm mưa bão ì ầm, những ngày nắng cháy thiêu đốt… Tất cả tạo thành một lực lượng siêu nhiên huyền bí, luôn đe dọa, rình rập và ám ảnh. Do vậy, họ phải tìm một nơi nương tựa, tìm một quyền lực để che chở. Từ đó, trong đầu óc người đồng bào thiểu số Tây Nguyên từ thuở xa xưa đã nảy sinh ra hình bóng những vị thần đầy sức mạnh, quyền uy sẵn sàng giúp họ chống lại những hăm dọa của thiên nhiên. Bên cạnh những vị phúc thần chở che còn có vô số những hung thần, ác quỷ, yêu ma rình rập ám hại. Vì thế, họ luôn phải “cầu xin” thần thánh, “hối lộ” ma quỷ để mong được yên ổn. Trong những dịp “cầu xin” hay “hối lộ” như thế, người ta thường tổ chức lễ hội đâm trâu mà người Mạ, Cơ Ho ở nam Tây Nguyên gọi là lễ hội Nhô Sarpu…
 
 ★★★
 
 Lễ hội Nhô Sarpu mang tính chất tâm điểm của mọi sinh hoạt tinh thần và vật chất của cư dân miền Thượng. Ví như có năm hạn hán kéo dài, dân làng phải cúng Yàng xin mưa. Chủ tế ngửa mặt lên trời và khấn: “Ơ Yàng, xin Yàng làm mưa bên đông làm giông bên tây… Xin Yàng cho suối ngập nước cho sông đầy tràn. Dân làng sẽ tạ ơn Yàng một con trâu trắng…”. Hoặc ăn trâu được tổ chức trong các buổi lễ ăn mừng tạ ơn Yàng, thần núi (Yàng Kông), thần sông (Yàng Dak), thần sấm (Bok Glak), thần lúa (Yàng Sơri). Nhiều gia đình giàu có còn cúng trâu tạ ơn thần linh cho họ ăn nên làm ra hay làm lễ bỏ mả người thân. Dù cộng đồng hay gia đình thì ăn trâu cũng là buổi lễ trọng đại nhất trong các lễ hội. Dù sắc thái của lễ hội này ở mỗi sắc tộc có nét khác nhau, nhưng thông thường thì:
 
 Thời gian trước ngày xảy ra sự kiện trọng đại của cả cộng đồng, chủ làng (quằng bòn) thông báo đến tất cả mọi người và công việc chuẩn bị cũng được bắt đầu như: ủ rượu cần, chọn trâu lớn, chặt cây rừng, trang trí hoa văn cho cây nêu lễ hội… Riêng chủ làng và thầy cúng (người nối nhịp cầu trung gian giữa con người với thần linh, ma quỷ) thì chuẩn bị những thông điệp giao tiếp. Ngày lễ Nhô Sarpu ấn định trước đã đến. Trên bãi đất bằng phẳng giữa buôn, cây nêu đã được dựng lên từ đêm trước. Cây nêu thường cao từ năm đến tám mét, được trang trí rất đẹp với các biểu tượng thể hiện quan niệm về âm - dương, thần linh - con người và ma quỷ. Con trâu được chọn đã cột dưới chân cây nêu. Chung quanh vòng di chuyển của trâu là khu vực để dân buôn tụ hội hành lễ, vỗ nhịp cồng chiêng, nhảy múa…
 
 ★★★
 
 Phần lễ được tiến hành trước mà chủ tế chính là già làng. Trong không khí trang nghiêm, già làng hành lễ bằng những bài khấn cầu xin tùy theo tính chất và mục đích của buổi lễ. Tiếp theo lời cầu xin là sự dâng mời mà lúc này con trâu trở thành nhân vật trung tâm, kẻ hy sinh mình cho sự bình yên, no ấm của buôn làng. Chủ tế, sau một hồi phèng la, chiêng trống của cộng đồng, khấn Yàng: “Ơ Yàng, hôm nay bộ tộc này giết con trâu để tạ ơn Yàng, (cùng các vị thần) đã cho buôn làng có gạo để ăn, có dê, có gà, có rau rừng để sống, con cháu sinh sôi nảy nở, tai qua nạn khỏi”... Linh hồn trâu đã thuộc về thần linh trong tiếng hò reo, tiếng tù và, cồng chiêng của lũ làng bên ánh lửa bập bùng soi vào vách núi…
 
 Chủ tế khấn Yàng rồi mời mọi người: “Trâu đã chết, hỡi thần linh, xin đừng đòi thêm nữa. Cạn nơi tôi, tôi về với người đây. Đến uống đi, hãy đến vợ lẫn chồng. Cha mẹ ruột và mẹ cha bên chồng vợ. Các bà mẹ, những đứa con, những xóm, những làng. Đến cả những trẻ thơ bé bỏng. Những ai mù lòa chỉ có gậy cầm tay. Hãy uống nào, hãy đến đây tất cả!...”. Rượu cần, những chóe rượu ngon nhất được mở ra. Cuộc vui kéo dài thâu đêm suốt sáng. Trai làng thi tài, gái làng khoe sắc. Người già giáo huấn cháu con. Hiềm khích giữa các thành viên trong bộ tộc và giữa các bộ tộc tiêu tan sau lễ ăn trâu trong men rượu thấm đẫm tình người. Khi những sừng máu trâu buổi tế lễ hòa trong rượu cần đã cạn, khi bếp lửa với những miếng thịt trâu béo ngậy đã tàn, khi chủ và khách đã thỏa mãn với cuộc vui đến hồi kết thúc, mọi người chia tay.
 
 Nếu bạn là khách của lễ hội Nhô Sarpu, khi ra về sẽ được dân làng tặng một miếng thịt trâu - đó là thông điệp của sự quý mến và thân thiện.