Rủ nhau đi đánh Bài chòi...

Sáng mùng Một Tết, khi trời còn mờ sương, cô bạn Việt kiều đang nghiên cứu về Văn hóa dân gian Việt Nam tại Đại học Paris, lần đầu được về quê ăn Tết, đã hăm hở thúc giục chúng tôi mau đưa cô đi đến Chợ Gò - một phiên chợ cầu may với những trò vui dân dã được tổ chức mỗi năm chỉ một lần bên cầu Trường Úc, thị trấn Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Điều gì đã làm cho bạn háo hức đi chợ Gò quá vậy? Tôi hỏi. Bạn đáp: Tại nghe nói ở đó có đánh Bài chòi, hôm qua tình cờ nghe bà Ba bánh xèo ru cháu:

Rủ nhau đi đánh Bài chòi

Để con nó khóc tới lòi rún ra...

Tôi muốn biết đánh Bài chòi là thế nào mà lại c&oa

Anh Hiệu, chị Hiệu trong Hội Bài chòi. Ảnh: TRẦN HOA KHÁ
Anh Hiệu, chị Hiệu trong Hội Bài chòi. Ảnh: TRẦN HOA KHÁ

Hội Bài chòi

Hội Bài chòi năm vẫn được tổ chức ở gò Trường Úc như hàng trăm năm trước. Đó là tục lệ đã có từ thế kỷ 18. Tương truyền, gò Trường Úc xưa là nơi đồn trú của quân đội nhà Tây Sơn, án ngữ lối vào thành Hoàng Đế từ đầm Thị Nại. Vào ngày mùng Một Tết, để các binh sĩ vơi nỗi nhớ nhà, dân trong vùng thường kéo đến úy lạo binh sĩ và cùng họ tham gia những trò vui bên gò, lâu dần thành hội. Một trong những trò chơi dân dã ở chợ Gò xưa còn lưu lại cho đến ngày nay chính là Bài chòi.

Nơi tổ chức đánh Bài chòi nằm ở giữa gò. Khi chúng tôi đến nơi thì chỗ dành cho người chơi đánh Bài chòi đã gần kín người. Đó là chín cái chòi tre lợp lá, có cầu thang lên xuống như nhà sàn, sắp xếp theo hình chữ nhật, cùng quay mặt vào sân chơi, mỗi bên có bốn chòi, một chòi lẻ nằm giữa đầu cùng gọi là chòi trung ương, nơi dành riêng cho các vị chức sắc hay có uy tín trong làng, hoặc dành cho các cặp vợ chồng mới cưới muốn tham gia cuộc chơi. Những khi không có khách đặc biệt thì ai cũng có thể ngồi chòi này. Cô bạn tôi may mắn đã tìm được chỗ nơi chòi ấy. Nghe các cụ già ở Trường Úc kể lại thì trò chơi hát hò đối đáp trên chòi vốn bắt nguồn từ hình thức giao lưu văn nghệ trên nương rẫy của những lưu dân thời mở cõi.

Trống chầu một hồi ba tiếng vang rền, dàn nhạc gồm: song loan, nhị, kèn bóp và trống chiến tiếp theo phụ họa, cuộc chơi bắt đầu với sự dẫn dắt của đôi nam nữ áo dài khăn đóng là anh, chị Hiệu. Họ rút con bài trong ống tre, giơ lên rồi hát những câu hát đố tên con bài ấy, gọi là Hô Thai. Người chơi mua ba con bài, ngồi trên các chòi để đợi. Nếu cả ba con bài trùng với những con bài mà Hiệu xướng tên thì thắng cuộc.

Trống lệnh đã vang, Hiệu rút một con bài. Mọi người hồi hộp chờ đợi tên con bài đang nằm trong tay Hiệu. Tiếng trống chầu thúc liên hồi, dàn nhạc cũng dồn dập tưng bừng, kích thích lòng mong đợi của mọi người. Nhưng Hiệu chưa vội đọc tên con bài. Chàng ta múa may, vái chào mọi người rồi mới cất giọng hô điệu bài chòi:

“Trời mưa làm ướt sân đình

Anh đi cho khéo trợt ình xuống đây

Trợt qươi (ơi), Ngũ Trợt!”

Chòi bên có người trùng con Ngũ Trợt, tức thì vang lên ba tiếng mõ “cốc, cốc, cốc!”. Hiệu trao thẻ bài cho chòi trúng, rồi rút thẻ khác hô tiếp:

“Đi đâu bỏ cửa bỏ nhà

Bỏ ba ông Táo cho gà nó bươi

Uớ Ba Gà! Quan khách nào có con Ba Gà?”

Trong lúc Hiệu hô, mọi người theo dõi, bàn tán, gặp chỗ thích thú thì cười rần rần tán thưởng. Quanh chòi, dân chúng kéo tới xem đông đảo, trai gái tranh thủ tán tỉnh nhau, trẻ con khoe quần áo mới. Chợt có hồi mõ dài vang lên, báo hiệu có chòi trúng bài lần thứ ba, kết thúc ván. Anh chị Hiệu bưng khay tiền thưởng và chung rượu tới chòi trúng thưa trịnh trọng:

“Chúc quý khách minh niên đắc tài, đắc lợi, đắc nhân tâm.

Vâng lệnh làng lãnh lấy khay tiền.”

Ông chủ chòi thắng cuộc đã vào tuổi xưa nay hiếm, lịch lãm nâng chung rượu Bàu Đá uống cạn, rồi cất lời hát đố:

“Cái gì có trái không hoa?

Cái gì không rễ cho ta tìm tòi?

Cái gì vừa thơm vừa tho?

Kẻ yêu người chuộng, kẻ dò tình nhân?”

Trong khi ông chủ chòi thắng còn đang đắc ý với câu đố vừa đưa ra thì hai anh chị Hiệu đã kịp hội ý. Chị Hiệu cúi đầu đáp lễ bằng điệu hát Xuân:

“Thưa,

Cây sung có trái không hoa

Tơ hồng không rễ cho ta tìm tòi

Quế ăn vừa thơm vừa tho

Kẻ yêu người chuộng, kẻ dò tình nhân…”

Đám đông vỗ tay tán thưởng ầm ầm như át cả tiếng trống chầu. Ông khách già cùng mấy đứa cháu bước xuống chòi, hai tay nâng khay tiền, thưởng lại cho đôi Hiệu hô hay đối giỏi.

Niềm vui nơi thôn dã

Ngồi trên chòi suốt cả buổi hội mà cô bạn tiến sĩ vẫn không bớt đi phần háo hức, gương mặt cô rạng rỡ như trẻ con được quà. Cô bảo: Đi đánh Bài chòi cứ như là đi xem hí kịch thôn quê, nhìn đâu cũng thấy hài hước, thú vị.

Điểm qua tên các lá Bài chòi, thấy rõ là của người Việt, hơn nữa, là của người Việt bình dân. Toàn những cái tên nôm na, được đặt một cách vừa cẩu thả dễ dãi vừa hài hước nghịch ngợm. Cẩu thả vì khi thì Tam Quăng, khi thì Ba Gà; lúc Cửu Điều, lúc lại Chín Gối. Tiếng Nôm, tiếng Hán xen nhau lẫn lộn. Rồi những cái tên như Ba Bụng, Ông Ầm, Ngũ Rún, v.v. nghe như những trận cười vừa nổ tung sau trò nghịch ngợm. Kế đến là những hình vẽ trên quân bài, thường minh họa cho tên gọi của quân bài đó một cách đơn giản. Ví như Sáu Miểng là lá bài vẽ hình sáu miếng rời nhau, Nhì Bánh thì vẽ hình hai chiếc bánh xe, Ba Gà có hình đầu gà… Nét bút chân chất có phần đơn giản ấy lại khiến quần chúng tưởng tượng ra đủ thứ ý nghĩa châm biếm, hài hước khi đặt lời cho những câu thai. Và những câu thai ấy cũng rặt những lời dân dã.

Một đặc điểm khác của Hội Bài chòi là nặng phần diễn xướng hơn là chạy theo cuộc đỏ đen. Một ván bài kéo dài hàng giờ, sự được thua chẳng đáng bao nhiêu. Không hề có ai tán gia bại sản vì Bài chòi. Đôi khi người thắng cuộc lại tặng luôn phần thưởng của mình cho nhà trò mỗi khi được dự màn hay. Vậy là đi cờ bạc hóa ra đi xem hát. Không khí ở nơi đánh Bài chòi quả là không khí của một đám hát.

Một thời vang bóng…

Chiều đã xế, bước chân xuống chòi mà bạn tôi bâng khuâng như kẻ mộng du, bởi hội đã tan như truyền thống từ mấy trăm năm trước, đã đến giờ đồn binh thu quân, các tráng sĩ phải quay về với việc quan phòng. Bạn ngậm ngùi tiếc nuối: Chẳng lẽ mỗi năm được xem trò hay có mỗi một lần sao? Tôi không trả lời câu hỏi mà kéo bạn đến thăm một bậc cao niên trong làng Bài chòi Bình Định. Đó là NSƯT Nguyễn Kiểm. Dù đã ngoài tám mươi, sức không còn khỏe, nhưng mỗi khi nghe nhắc đến Bài chòi là ánh mắt ông bừng lên lấp lánh.

Rủ nhau đi đánh Bài chòi... ảnh 1

NSƯT Nguyễn Kiểm kể, những thập niên đầu thế kỷ 20, Bài chòi bắt đầu có những biến thể. Để cho giản tiện, một số nghệ nhân kiến tạo một lối mới gọi là Bài chòi chiếu. Chỉ cần một chiếc chiếu với những khán thính giả là người chơi ngồi chung quanh, anh Hiệu đã có thể một mình độc diễn nhiều vai, nhiều cảnh khác nhau mà không cần những đạo cụ phức tạp; lời thơ, câu hát hoàn toàn phụ thuộc vào sự ngẫu hứng của người diễn xướng. Theo NSƯT Nguyễn Kiểm, Bài chòi chiếu là đỉnh cao của nghệ thuật Bài chòi.

Vào năm 1933, một nhóm nghệ sĩ Bình Định đã đưa vở Bài chòi có cốt truyện đầu tiên lên sân khấu, dứt bỏ thể thức chơi truyền thống của Bài chòi. Nghệ sĩ diễn xuất theo quy luật ước lệ và cách điệu. Làn điệu cũng phát triển hơn, ngoài điệu cố hữu là hô Bài chòi và Xuân Nữ, còn có điệu Cổ bản, nói lối, Hồ Quảng, Xàng Xê, hát Nam, hát Khách, Tẩu Mã, Lý Thượng... Về nhạc cụ, ngoài đàn nhị, kèn, trống, sanh tiền còn có thêm đàn nguyệt. Từ đây, sân khấu Bài chòi bắt đầu được khán giả đón nhận nồng nhiệt.

Từ năm 1933 đến năm 1945, tỉnh Bình Ðịnh có trên 10 gánh hát Bài chòi nổi tiếng, với đội ngũ diễn viên hùng hậu và lực lượng nhạc công, soạn giả sung sức, làm nên những vở ca kịch nổi tiếng như Phạm Công Cúc Hoa, Thoại Khanh Châu Tuấn, Tam Hạ Nam Ðường, Lưu Bình Dương Lễ, Quan Công Phục Huê Dung, Lý Ân Lang Châu...

Trong thời kỳ này ba thể hình Bài chòi đều thịnh hành và không cạnh tranh lấn áp nhau. Bài chòi truyện có một chỗ đứng ở sân khấu phông màn, lưu diễn ở các thị tứ, thị trấn. Bài chòi chiếu có đất sống trên khắp các miền quê. Hội đánh Bài chòi truyền thống vẫn hút người chơi mỗi dịp xuân về.

Cô bạn Việt kiều xa quê đã bốn mươi năm của tôi bước ra khỏi nhịp trống chầu ở nhà lão nghệ sĩ mà nước mắt giàn giụa: Trên thế giới, có nhiều loại hình nghệ thuật dân gian cũng có nét tương đồng với Bài chòi như Pansori của Hàn Quốc, Hát nói của Angieri và Ấn Độ… nhưng từ ngữ, làn điệu, âm nhạc… trong Bài chòi Việt Nam có lẽ là độc đáo nhất. Mình bôn ba khắp chốn để kiếm tìm vẻ đẹp dân dã của văn hóa Việt, không ngờ viên kim cương ấy ẩn ngay trên mảnh đất quê nhà mà nào có hay. Ước một ngày, Nghệ thuật Bài chòi được thế giới vinh danh!

Niềm ước của bạn tôi và nhiều người khác, nay đã thành sự thật!