Tìm hiểu nội dung các văn kiện Đại hội XII của Đảng

Quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội

Giải quyết tốt vấn đề quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là quan điểm, đường lối xuyên suốt của Đảng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nhằm góp phần đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Những vấn đề xã hội được tập trung quan tâm bao gồm các lĩnh vực liên quan đến sự phát triển của con người và xã hội như: dân số và phát triển nguồn nhân lực, chuyển dịch cơ cấu lao động, việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động, chăm sóc sức khỏe nhân dân, tạo bình đẳng về cơ hội để người dân thụ hưởng phúc lợi xã hội và bảo đảm an sinh xã hội.

Văn kiện chỉ rõ “Trong xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế-xã hội, quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hóa giàu-nghèo, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững. Thực hiện các giải pháp, chính sách và quản lý để khắc phục từng bước sự mất cân đối về phát triển đối với từng lĩnh vực, từng vùng, bảo đảm sự hài hòa cả trong phát triển, hưởng thụ; bảo đảm cơ cấu giai tầng xã hội, dân cư, ngành nghề hợp lý…”.

Trải qua 30 năm đổi mới, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội góp phần quan trọng bảo đảm ổn định xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân; các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.

Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta đang phải đối mặt nhiều khó khăn, thách thức về suy thoái kinh tế toàn cầu, những hạn chế, khiếm khuyết vốn có của nền kinh tế, những yếu kém trong lãnh đạo, quản lý; thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu gây thiệt hại nặng nề; nhu cầu bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội ngày càng cao đã tác động trực tiếp đến việc phát triển việc làm bền vững, nâng cao thu nhập cho người lao động, bảo đảm an sinh xã hội cho người dân, nhất là người về hưu, người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn khác. Hơn nữa, Việt Nam cũng đang phải đối mặt nhiều vấn đề phức tạp như chênh lệch về mức sống gia tăng, nghèo đói của đồng bào dân tộc thiểu số, nghèo đô thị và di cư, chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế và việc bảo đảm công bằng, tiến bộ xã hội chưa theo kịp yêu cầu phát triển mới của đất nước. Điều đó đòi hỏi Đảng ta phải đặt vấn đề về quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là nội dung tất yếu của quá trình đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới trong văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng.

Về mặt lý luận và nguyên tắc, phát triển xã hội được thể hiện qua việc xây dựng và thực thi các chính sách xã hội. Còn quản lý phát triển xã hội là những hoạt động bảo đảm cho xã hội phát triển theo đúng quy luật, dựa trên hai mặt: (i) Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật; và (ii) các tổ chức xã hội thực hiện quyền làm chủ của nhân dân thông qua giám sát thực thi pháp luật và nhân dân thượng tôn pháp luật. Thực hiện được nguyên lý đó phải dựa trên nguyên tắc, quản lý phát triển xã hội phải bảo đảm công bằng, tiến bộ và bình đẳng xã hội.

Về nội dung, bản chất của quản lý phát triển xã hội là phải thật sự bảo đảm phát triển chất lượng cuộc sống của nhân dân; coi nhân dân là chủ thể phát triển xã hội và quyền làm chủ đó được tôn trọng và bảo vệ; gia đình là tế bào xã hội phải hòa thuận, cộng đồng hài hòa; môi trường xã hội an toàn, lành mạnh; con người phát triển toàn diện, có cơ hội cống hiến và hưởng thụ thành quả của sự phát triển.

Về mục tiêu quản lý phát triển xã hội là phải thể hiện được tinh thần tự đổi mới, tự hoàn thiện, củng cố, phát triển; theo dõi biến đổi cơ cấu, giai tầng xã hội để điều chỉnh; tạo sự đồng thuận xã hội thông qua giải pháp đối thoại, thương lượng; dân chủ hóa; tăng cường kỷ cương pháp luật; đề cao trách nhiệm của nhân dân là chủ thể phát triển xã hội; đây chính là nền tảng về nhận thức để Đảng và nhân dân ta thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để giải quyết tốt vấn đề quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, cần quan tâm một số vấn đề cơ bản sau:

Trước hết, muốn phát triển xã hội bền vững đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cần phải phân tích, đánh giá chính xác thực trạng biến đổi cơ cấu xã hội, phân tầng xã hội ở nước ta hiện nay. Thực hiện các giải pháp quản lý phát triển xã hội hiệu quả để giải quyết hài hòa các mối quan hệ xã hội, phân hóa giàu nghèo, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững nhằm khắc phục từng bước sự mất cân đối về cơ cấu giai tầng xã hội, dân cư, ngành nghề, giàu nghèo; kiểm soát và xử lý các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội để bảo đảm mọi người dân đều được tự do, bình đẳng về cơ hội và điều kiện phát triển toàn diện.

Điều đó chỉ có thể thực hiện được khi Nhà nước tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về chính sách xã hội, an sinh xã hội, tạo hành lang pháp lý để kiến tạo mô hình hệ thống an sinh xã hội hiện đại với các chức năng, trụ cột chính là: Phòng ngừa rủi ro; giảm thiểu rủi ro và Khắc phục rủi ro. Có thể nói, các trụ cột cơ bản của hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam đã được định hình là: Nhóm chính sách phòng ngừa rủi ro, bao gồm các chính sách hỗ trợ tạo việc làm và tự tạo việc làm với mức thu nhập không được thấp hơn mức lương tối thiểu.

Nhóm chính sách giảm thiểu rủi ro bao gồm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế và chính sách giảm nghèo bền vững nhằm bảo đảm nguồn tài chính thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi bị suy giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, đồng thời, mục tiêu giảm nghèo bền vững chuyển sang chuẩn nghèo theo phương pháp đo lường đa chiều hướng vào nhóm khó khăn nhất, địa bàn nghèo nhất và hỗ trợ dựa trên xác định nguyên nhân nghèo của từng hộ gia đình, từng địa bàn cụ thể. Nhóm chính sách khắc phục rủi ro, bao gồm các chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên và đột xuất nhằm hỗ trợ nhóm đối tượng gặp khó khăn trong cuộc sống. Bên cạnh đó, để bảo đảm an sinh xã hội cho người dân, cũng cần tiến tới thiết lập “Sàn an sinh xã hội” với mục đích bảo đảm cho mọi người dân có mức thu nhập tối thiểu và tiếp cận được các dịch vụ xã hội thiết yếu (như chăm sóc y tế cơ bản, nước sinh hoạt hợp vệ sinh, nhà ở, giáo dục cơ bản và các dịch vụ xã hội cơ bản khác).

Thứ hai, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội là phải gắn kết chặt chẽ giữa chính sách tăng trưởng kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo đảm và không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân, làm cho nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực hiện các cơ hội bình đẳng để giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm và thu nhập cho người lao động, tạo cơ hội để mọi người được học tập, học nghề, có việc làm và được hưởng tiền lương, thu nhập hợp lý, thỏa đáng; bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; chế độ nghỉ ngơi để đủ điều kiện tái sản xuất mở rộng sức lao động. Chú trọng giải quyết việc làm cho lao động dôi dư từ khu vực nông nghiệp do việc tích tụ ruộng đất hoặc thu hồi đất phát triển công nghiệp, đô thị và các công trình công cộng, khuyến khích đầu tư xã hội tạo mở nhiều việc làm.

Cải cách hệ thống chính sách về tiền lương trong đó tiến tới thực hiện mục tiêu tiền lương cơ sở, tiền lương tối thiểu vùng đáp ứng được nhu cầu sống tối thiểu của người lao động; gắn điều chỉnh tiền lương tối thiểu với tăng năng suất lao động, năng lực cạnh tranh; đổi mới căn bản, toàn diện chính sách dạy nghề để thực hiện đạt và vượt chỉ tiêu đến năm 2020 “tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 - 70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%”. Nhà nước phải có chính sách, cơ chế và giải pháp tích cực, hiệu quả để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, phấn đấu thực hiện đạt chỉ tiêu: “đến năm 2020, tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 40%”, tăng tỷ trọng lao động khu vực có quan hệ lao động đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

Thứ ba, hoàn thiện chính sách phân phối và phân phối lại để bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, người lao động và doanh nghiệp. Thực hiện phân phối lại thông qua phúc lợi xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực y tế, giáo dục. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế. Mở rộng chính sách phúc lợi xã hội thành hệ thống chính sách an sinh xã hội đa tầng, đây là một trong những chỉ báo quan trọng của một xã hội công bằng và văn minh.

Thứ tư, bảo đảm tốt an sinh xã hội để mọi người dân có đời sống ở mức tối thiểu (sàn an sinh xã hội), tiếp tục nâng mức trợ cấp xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công, điều chỉnh lương của người về hưu có mức lương thấp, đời sống khó khăn; ban hành chuẩn nghèo mới theo phương pháp tiếp cận đa chiều để có cơ sở xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững theo hướng tập trung chống tái nghèo và duy trì thành quả giảm nghèo bền vững. Tổ chức tốt hơn việc cung cấp các dịch vụ cơ bản nhà ở, nước sạch, y tế, giáo dục, thông tin, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.

Cuối cùng, coi trọng chăm sóc sức khỏe nhân dân, công tác dân số và phát triển theo hướng bảo đảm công bằng, giảm chênh lệch mới về tiếp cận chính sách chăm sóc sức khỏe nhân dân giữa các địa bàn, các nhóm đối tượng. Đầu tư cho y tế là đầu tư cho phát triển; chuyển từ cơ chế đầu tư tài chính cho cơ sở y tế sang hỗ trợ trực tiếp cho người dân thông qua bảo hiểm y tế và thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; bảo đảm để mọi người dân có điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng; bình đẳng giữa y tế nhà nước và y tế tư nhân; thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực y tế nhưng đồng thời bảo đảm sự quản lý, điều tiết và đầu tư thích hợp của Nhà nước trong lĩnh vực này phù hợp với sự phát triển xã hội; có chính sách hỗ trợ cần thiết về chăm sóc sức khỏe đối với trẻ em, người nghèo, người dân tộc thiểu số, người cao tuổi, người khuyết tật và các đối tượng khó khăn khác. Tăng cường chất lượng khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế ở tuyến y tế cơ sở; khắc phục tình trạng quá tải ở bệnh viện tuyến trên; cải cách thủ tục trong quản lý bảo hiểm y tế và khám, chữa bệnh; công khai quyền lợi của người có thẻ bảo hiểm y tế; tăng cường y đức; tăng cường quản lý nhà nước, tuyên truyền, giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về bảo hiểm y tế. Phấn đấu đạt mục tiêu đến năm 2020, tỷ lệ bao phủ BHYT đạt 80% dân số.

Đất nước ta đang xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó điểm khác cơ bản với các nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là tính chất công bằng xã hội trong quá trình thực hiện các chính sách kinh tế. Bởi vậy, giải quyết tốt vấn đề quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội vì hạnh phúc con người, phát huy nhân tố con người, vì con người, bảo đảm sự công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, là chỉ báo rõ nhất về chủ nghĩa xã hội. Quan điểm và định hướng các chính sách phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội của Đảng ta là giữ vững định hướng phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN), nhưng không tách rời mà đi cùng xu hướng phát triển của thời đại, xây dựng mô hình xã hội mới được cấu trúc bởi ba thành phần cơ bản là: phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát huy quyền dân chủ XHCN của nhân dân và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

TS Bùi Sỹ Lợi

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội