Thực hiện Nghị quyết t.Ư 4, khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng

Công tác cán bộ trong doanh nghiệp nhà nước (Tiếp theo và hết) (*)

Ngăn ngừa lạm quyền trong doanh nghiệp nhà nước (DNNN) cần những giải pháp căn cơ, sự phối hợp đồng bộ của nhiều cơ quan nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý DNNN.

Cơ chế đó bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của cấp ủy đảng, nâng cao năng lực quản lý, giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nước, đồng thời đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ trong doanh nghiệp (DN). Mục tiêu là xây dựng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực, uy tín đáp ứng yêu cầu cơ cấu lại, đổi mới DNNN phù hợp các chuẩn mực quốc tế về quản trị DN; xử lý dứt điểm tình trạng hoạt động kinh doanh thua lỗ, đầu tư kém hiệu quả... như các Nghị quyết T.Ư 5, T.Ư 7, khóa XII đề ra.

Bài 2: Ðồng bộ các giải pháp

Nâng cao vai trò của cấp ủy

Ðổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng, nâng cao vai trò của cấp ủy đối với công tác cán bộ trong DNNN, là đòi hỏi tất yếu từ thực tiễn. Trước hết là hoàn thiện mô hình tổ chức đảng trong các DNNN cho phù hợp tình hình thực tiễn, cùng với hoàn thiện cơ chế, chính sách.

Trong 33 đảng bộ tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng, tổ chức tài chính nhà nước trực thuộc Ðảng bộ Khối Doanh nghiệp T.Ư, có 22 đảng bộ không toàn DN. Một số công ty, chi nhánh của các DN này có trụ sở đặt tại các tỉnh, thành phố, về chuyên môn, chịu sự điều hành của tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng nhưng tổ chức đảng lại trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy, có nơi trực thuộc huyện ủy. Do đó đảng ủy tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng trong Khối không có điều kiện để thực hiện đầy đủ vai trò lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ, không quyết định đánh giá đảng viên, không kiểm tra, giám sát cán bộ và công tác cán bộ một cách toàn diện... Về phía Ðảng ủy Khối Doanh nghiệp T.Ư, với đặc thù không có chính quyền cùng cấp, Ðảng ủy Khối không quyết định mà chỉ tham gia với cơ quan có thẩm quyền về công tác cán bộ lãnh đạo, quản lý các DN trong Khối, vì vậy không có đầy đủ cơ sở để theo dõi, nắm bắt và đánh giá cán bộ một cách toàn diện.

Nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác cán bộ, Ðảng bộ Khối đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện công tác cán bộ; giúp các đảng ủy DN lãnh đạo toàn diện, trực tiếp và nhất quán quy định, quy trình công tác cán bộ; khắc phục tình trạng lúng túng, không rõ thẩm quyền, trách nhiệm trong đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, quy hoạch cán bộ; đồng thời phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy DN, nhất là vị trí, vai trò của ban thường vụ cấp ủy. Mặt khác, để tăng cường hiệu quả quản lý, giám sát khi cán bộ và công tác cán bộ trong Khối liên quan nhiều cấp, nhiều ngành quản lý, Ban Thường vụ Ðảng ủy Khối đã ký quy chế phối hợp công tác với một số ban Ðảng T.Ư và ban cán sự đảng, đảng đoàn của các bộ, ngành liên quan; Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại DN. Các Ðảng ủy tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng ký hợp tác với các cấp ủy địa phương, nơi có đơn vị của DN đóng trên địa bàn. Nội dung trọng tâm là công tác cán bộ.

Từ thực tiễn gần 10 năm thực hiện Quy định 196-QÐ/TW của Ban Bí thư về tổ chức đảng trong các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, công ty nhà nước, ngân hàng thương mại nhà nước, ngày 13-2-2017, Ban Bí thư đã ban hành Quy định số 69-QÐ/TW về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của đảng ủy cấp trên cơ sở trong tập đoàn kinh tế, DNNN, tổ chức tài chính nhà nước; DN, ngân hàng có vốn nhà nước chi phối. Ban Bí thư quy định rõ, các đồng chí bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch Hội đồng quản trị/Hội đồng thành viên (HÐQT/HÐTV), chủ tịch công ty, tổng giám đốc; bố trí một phó bí thư thường trực phụ trách công tác xây dựng Ðảng; cấp ủy viên được phân công đảm nhận các vị trí lãnh đạo chủ chốt trong DN. Quy định cũng nêu rõ, không bố trí, phân công các chức vụ lãnh đạo chủ chốt trong DN nếu không phải là cấp ủy viên cấp trên hoặc cùng cấp. Các cơ quan tham mưu giúp việc của đảng ủy được hợp nhất với các cơ quan chuyên môn của DN có chức năng, nhiệm vụ tương đồng. Với Quy định số 69, Trung ương đã nhấn mạnh vai trò lãnh đạo toàn diện của cấp ủy đảng trong DN có vốn nhà nước chi phối; là giải pháp tinh giản bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác tổ chức cán bộ trong DNNN.

Thực tế hoạt động của DNNN thời gian qua cũng cho thấy, việc giao các bộ, ngành, địa phương làm đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại DN có những điểm chưa phù hợp. Cơ chế này còn bộc lộ khiếm khuyết, hạn chế hiệu quả trong thực hiện quyền chủ sở hữu, quản lý và sử dụng vốn, tài sản nhà nước cũng như công tác cán bộ. Bộ chủ quản vừa làm chức năng quản lý nhà nước về chuyên môn, vừa là chủ sở hữu vốn nhà nước, chi phối nhân sự cấp cao của DN, cùng các kế hoạch, quy hoạch, chiến lược phát triển, nghĩa là "vừa đá bóng, vừa thổi còi". Do đó, cần tách bạch chức năng quản lý nhà nước và chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại DN. Thực hiện Nghị quyết T.Ư 5, khóa XII, Chính phủ đã quyết định thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại DN và chính thức đi vào hoạt động từ tháng 10-2018, mục tiêu quản lý các tập đoàn, tổng công ty có quy mô lớn, quan trọng thuộc diện chuyển giao từ các bộ, UBND cấp tỉnh theo quy định của pháp luật. Ðây là giải pháp nhằm tạo đột phá, thay đổi cơ bản trong việc quản lý DN có vốn đầu tư của Nhà nước, với kỳ vọng bảo đảm công khai, minh bạch trong đánh giá hiệu quả sử dụng vốn nhà nước, tăng cường trách nhiệm của cá nhân, tổ chức đối với việc đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại DN; chú trọng phòng, chống tham nhũng, lợi ích nhóm, yếu tố gia đình, "sân sau" chi phối hoạt động DNNN, nhất là trong quá trình đẩy mạnh cổ phần hóa. Ngày 11-1-2019, Ban Bí thư ban hành quyết định thành lập Ban cán sự đảng Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại DN. Ban cán sự đảng Ủy ban chịu sự lãnh đạo trực tiếp và thường xuyên của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, thực hiện chức năng lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của Ủy ban, trước hết là về công tác cán bộ.

Ðổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ

Nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý DNNN được đặt ra tại các Hội nghị T.Ư 5, T.Ư 7, khóa XII trở nên "nóng" hơn bao giờ hết, sau hàng loạt vụ, việc cán bộ, đảng viên nắm giữ các chức vụ quan trọng trong các DNNN "dính chàm". Nhiệm vụ đó đòi hỏi chiến lược bài bản, dài hơi trong tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực quản trị, điều hành, phẩm chất đạo đức của cán bộ, đi đôi với cơ cấu lại bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; phân cấp, phân quyền rõ ràng. Ngoài những tiêu chuẩn chung được đề ra tại Quy định số 89-QÐ/TW của Bộ Chính trị về khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý, người được giao quyền lãnh đạo, quản lý DNNN cần những tiêu chuẩn có tính đặc thù.

Rút kinh nghiệm sâu sắc từ những tổn thất nặng nề trong công tác cán bộ trước đây, sau khi kiện toàn đội ngũ, nhằm đổi mới toàn diện công tác cán bộ, Ðảng ủy Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) tập trung chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, nhất là người đứng đầu các cấp ủy, đơn vị, đoàn thể thật sự nêu cao tính đảng, tinh thần trách nhiệm và ý thức tuân thủ pháp luật, đủ phẩm chất, năng lực, uy tín. Song hành với thực hiện nghị quyết chuyên đề về công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên; thực hiện luân chuyển, điều động cán bộ, Ðảng ủy xây dựng nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới về xây dựng Ðảng, về chuyên môn, nghiệp vụ cho các cán bộ diện quy hoạch trở lên. Theo Ðảng ủy PVN, mục tiêu trước mắt nhằm thiết lập tổ chức bộ máy, tối ưu hóa và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, bảo đảm thực hiện thắng lợi Chiến lược và Ðề án tái cơ cấu toàn diện Tập đoàn đến năm 2025. Mô hình quản trị sớm ứng dụng khoa học - công nghệ để hiện đại hóa, nâng cao chất lượng quản trị, điều hành của Tập đoàn và các DN thành viên; tinh giản biên chế tổng thể tại công ty mẹ, các đơn vị trực thuộc, DN thành viên, tổ chức đảng và các đoàn thể chính trị - xã hội trong phạm vi toàn Tập đoàn…

Tạo đột phá trong công tác cán bộ ở DNNN, một số đơn vị đã nghiên cứu, từng bước triển khai thực hiện thí điểm chủ trương thi tuyển để bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý; người đứng đầu lựa chọn, giới thiệu cán bộ quy hoạch để bầu cử, bổ nhiệm cấp phó, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ và phải chịu trách nhiệm về việc giới thiệu của mình; giao quyền cho người đứng đầu bổ nhiệm cán bộ trong quy hoạch, miễn nhiệm đối với cấp trưởng cấp dưới trực tiếp và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình; xây dựng quy định chế tài xử lý cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ…

Tại Ðảng bộ Tổng Công ty Ðường sắt Việt Nam, Ðảng bộ PVN…, chủ trương này đều được cụ thể hóa tại chương trình hành động thực hiện Nghị quyết T.Ư 7, khóa XII.

Nhiều ý kiến cho rằng, cần triển khai cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm qua thi tuyển cạnh tranh, công khai, minh bạch đối với tất cả các chức danh quản lý, điều hành và các vị trí công việc khác trong DNNN; nghiên cứu xây dựng cơ chế thuê tổng giám đốc, giám đốc điều hành, thành viên HÐQT, HÐTV, thực hiện cơ chế đánh giá hiệu quả hoạt động của HÐQT, HÐTV, ban điều hành, đồng thời có chế độ đãi ngộ thỏa đáng, tương xứng với trách nhiệm và hiệu quả công việc. Bên cạnh tiêu chuẩn chung, cần quy định rõ tiêu chuẩn, tiêu chí cụ thể về lựa chọn người có năng lực, đặc biệt nhấn mạnh tiêu chuẩn đào tạo, kinh nghiệm, tầm nhìn chiến lược, năng lực quản trị và đạo đức… Phương thức lựa chọn người đại diện và điều hành DNNN cũng cần đổi mới theo hướng tuyển người kèm theo phương án kinh doanh, có hội đồng đánh giá, bỏ phiếu kín, lựa chọn những người được điểm cao nhất để bổ nhiệm các vị trí lãnh đạo quản trị điều hành DN trong nhiệm kỳ ba năm. Giám sát và có cơ chế thưởng phạt hằng năm bằng chế độ lương, thưởng, kỷ luật, sa thải. Chế độ luân chuyển, đổi mới người đại diện trong từng DN theo nguyên tắc không được làm đại diện phần vốn nhà nước trong một DN quá hai nhiệm kỳ…

Cụ thể hóa cơ chế kiểm soát quyền lực

Có lẽ chưa khi nào yêu cầu kiểm soát quyền lực được Trung ương đặt cao như nhiệm kỳ Ðại hội XII của Ðảng. Tại nhiều văn bản chỉ đạo, Trung ương đã chỉ rõ, cần hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương. Ðối với khu vực DNNN, nơi nắm giữ nguồn lực rất lớn của Nhà nước, có ảnh hưởng nền kinh tế ở tầm vĩ mô, đòi hỏi đó càng trở nên cấp thiết, nhằm ngăn chặn hiện tượng tha hóa trong một bộ phận cán bộ, đảng viên được giao quyền quản lý, điều hành DN.

Từ những vụ án sai phạm hàng nghìn tỷ đồng đã chỉ ra hậu quả của sự cấu kết giữa một số cán bộ có chức, có quyền trong DNNN, tạo thành nhóm lợi ích để dễ bề thâu tóm quyền lực, lũng đoạn, tham nhũng. Tình trạng đó có nguyên nhân từ cá nhân cán bộ, đảng viên được giao quyền thiếu tu dưỡng, rèn luyện, nguyên nhân khác là sự suy yếu năng lực, sức chiến đấu của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, người lao động trong DNNN. Sự né tránh, ngại va chạm của một tập thể vô hình trung trở thành vỏ bọc bao che cho hành vi tha hóa quyền lực tiến sâu, hậu quả khó kiểm soát.

Một nghiên cứu mới đây của Ủy ban Kiểm tra T.Ư về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật của Ðảng với kiểm soát quyền lực, đã nhận diện một số biểu hiện tha hóa quyền lực thường gặp. Theo đó, có chín lĩnh vực dễ xảy ra sai phạm, với hơn 100 biểu hiện cụ thể về lộng quyền, lạm quyền, lợi dụng quyền lực, thiếu trách nhiệm... Xét trong phạm vi hoạt động của DNNN thì phần lớn các lĩnh vực đều dễ xảy ra vi phạm nếu không được kiểm soát chặt chẽ, từ công tác cán bộ, xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài, quản lý kinh tế...

Vấn đề đặt ra là chưa xác định rõ chức năng, nhiệm vụ cụ thể của các cơ quan trong việc phòng, chống tha hóa quyền lực, tham nhũng, lợi ích nhóm; chưa có cơ quan nào có chức năng kiểm soát quyền lực hay định rõ chế tài kiểm soát quyền lực. Ngay cả Ủy ban Kiểm tra các cấp là cơ quan kiểm tra, giám sát chuyên trách của cấp ủy, nhưng trong các nhiệm vụ được quy định cũng chưa có nhiệm vụ, nội dung kiểm soát quyền lực. Vì vậy, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong phòng, chống tha hóa quyền lực, trong đó, Ủy ban Kiểm tra các cấp là lực lượng nòng cốt.

Trong DNNN cũng vậy, thực hiện Quy định số 69-QÐ/TW của Ban Bí thư, tất cả cán bộ có chức, quyền trong DN phải là cấp ủy viên, do đó đều chịu sự kiểm tra, giám sát của Ðảng. Ðồng thời, tăng cường phối hợp các cơ quan chức năng thanh tra, kiểm tra, kiểm toán... nhằm tạo rào cản hữu hiệu cảnh báo, răn đe, ngăn chặn, phòng ngừa tha hóa quyền lực trong DNNN. Từ thực tế các vụ việc tiêu cực xảy ra trong các DNNN gần đây cho thấy, cơ chế kiểm soát nội bộ hoạt động không hiệu quả thậm chí bị vô hiệu hóa trong DN. Hạn chế này cần được khắc phục triệt để theo hướng, ban kiểm soát, kiểm soát viên phải thật sự là công cụ giám sát hữu hiệu của chủ sở hữu vốn nhà nước tại DN, hoạt động độc lập và không chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo hoặc chi phối về lợi ích của HÐQT/HÐTV và ban điều hành DN; cần thiết lập các hệ thống quản trị, kiểm soát nội bộ có hiệu quả trong việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý vi phạm pháp luật, rủi ro, xung đột lợi ích, lợi ích nhóm, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, tiêu cực, tham nhũng.

Bên cạnh đó, cần bảo đảm tính minh bạch, công khai của DNNN và trách nhiệm giải trình của người quản lý DN, nhất là về tài chính, đầu tư, mua sắm, sử dụng vốn của Nhà nước, chi phí, kết quả kinh doanh, phân phối lợi nhuận, công tác cán bộ, các giao dịch lớn, giao dịch với người có liên quan đến người quản lý, tài sản và thu nhập của người quản lý theo các chuẩn mực quốc tế và quy định của pháp luật. Hoàn thiện chế độ kế toán, kiểm toán và hệ thống báo cáo tài chính phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Các cấp ủy cần xây dựng cơ chế để đảng viên và người lao động tham gia giám sát người có chức, quyền trong DNNN; cụ thể hóa và thực hiện đúng quy định, quy chế về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; thực hiện nghiêm túc chế độ kê khai tài sản của cán bộ hằng năm… Tuy nhiên, nếu không có sự sâu sát của cấp ủy, sự tự giác, nghiêm túc thực hiện của cán bộ, đảng viên thì các chế tài cũng chỉ là những quy định có hiệu lực trên giấy, khi hầu hết các trường hợp vi phạm chỉ được xem xét nếu có đơn thư tố cáo chính thức.

Ðể nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ, quản lý DNNN đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, nâng cao tính Ðảng, ý thức tuân thủ pháp luật; lãnh đạo, điều hành DN sản xuất, kinh doanh hiệu quả, đạt từ 70 đến 80% số cán bộ có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế như mục tiêu Nghị quyết T.Ư 7, khóa XII đề ra, cần sự vào cuộc tập trung, đồng bộ, quyết liệt và kiên trì của các cơ quan Ðảng, Nhà nước. Thế nhưng, trước hết vẫn là sự tự giác rèn luyện, phấn đấu, tu dưỡng của chính những cán bộ, đảng viên, người được chọn và có triển vọng được chọn (quy hoạch) vào các vị trí lãnh đạo, điều hành DNNN. Khi người được lựa chọn nhận thức đúng, đủ, ý thức trách nhiệm cao, trui rèn khả năng tự miễn trước mọi cám dỗ tầm thường, là một giải pháp hữu hiệu, có tác dụng ngăn ngừa suy thoái từ bên trong trước khi phải đưa ra các chế tài xử lý.

Bài 1: Bài học sâu sắc từ những "đại án"

----------------------------------------------------

(★) Xem Báo Nhân Dân số ra ngày 11-4-2019.