Phát huy nội lực của đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi

NDO -

NDĐT- Thảo luận về Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 (Đề án) tại hội trường sáng 1-11, các đại biểu Quốc hội đều nhất trí cao với tên gọi và việc ban hành Nghị quyết về Đề án; đồng thời cho rằng cần khơi dậy ý chí tự lực, tự cường, tạo động lực vươn lên của đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

Đại biểu Quốc hội Cao Thị Giang (Quảng Bình) cho rằng, khi ban hành chính sách cần chú trọng đến việc tác động để kích thích nội lực của người dân vùng dân tộc thiểu số, tránh việc làm hộ, làm thay.
Đại biểu Quốc hội Cao Thị Giang (Quảng Bình) cho rằng, khi ban hành chính sách cần chú trọng đến việc tác động để kích thích nội lực của người dân vùng dân tộc thiểu số, tránh việc làm hộ, làm thay.

Tạo động lực cho đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi vươn lên

Ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội đều khẳng định Đảng, Nhà nước luôn quan tâm chăm lo, chăm sóc đồng bào dân tộc thiểu số miền núi, vùng đặc biệt khó khăn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước ta đã thực hiện tốt nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa 54 dân tộc anh em.

Với sự quan tâm đặc biệt, Đảng, Nhà nước đã có các chính sách ưu tiên đầu tư phát triển cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Tốc độ tăng trưởng phát triển ở khu vực này khá hơn trước, kết cấu hạ tầng như đường, điện, trường học, trạm xá, các công trình thủy lợi được đầu tư từng bước đồng bộ. Công tác định canh, định cư luôn được gắn với hoạch định và phát triển tổ chức thực hiện chính sách kinh tế - xã hội, văn hóa. Chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là người dân tộc thiểu số.

Nhiều chính sách đã đi vào cuộc sống và đến nay đã đạt được những thành tựu rất quan trọng. Tuy nhiên, với tinh thần thẳng thắn, các vị đại biểu Quốc hội cũng đã chỉ rõ những tồn tại, những khó khăn, vướng mắc khi thực thi chính sách ở vùng này.

Đại biểu Nguyễn Phước Lộc (Đoàn đại biểu Quốc hội TP Hồ Chí Minh) và một số đại biểu khác chỉ ra rằng, chính sách pháp luật liên quan đến dân tộc thiểu số và miền núi đã ban hành có đến 118 chính sách còn hiệu lực, nhưng thiếu tính thống nhất, đồng bộ, còn dàn trải, chồng chéo, chậm được tích hợp, lồng ghép và do nhiều bộ, ngành quản lý phân tán theo từng lĩnh vực.

Phát huy nội lực của đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi ảnh 1

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Phước Lộc (Đoàn đại biểu Quốc hội TP Hồ Chí Minh).

Các đại biểu đều tán thành với việc các chính sách được tập trung về một đầu mối quản lý và điều phối, từ đó sẽ rà soát, sắp xếp, tích hợp các chính sách để sử dụng hiệu quả hơn nguồn lực trong điều kiện giới hạn. Đồng thời, tập trung nhiều hơn cho mục tiêu đầu tư phát triển, hướng đến phát triển bền vững với chu kỳ đầu tư có tầm nhìn dài hạn. Qua đó, sẽ chú trọng đầu tư đúng mức, phát huy tiềm năng, lợi thế văn hóa của từng vùng, từng dân tộc, phát huy nội lực của đồng bào và vai trò chủ động, sáng tạo của từng địa phương, từng cộng đồng nghèo để hòa cùng mục tiêu phát triển của đất nước, thúc đẩy việc kết nối giữa vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi với vùng phát triển. Chính sách được ban hành chủ yếu từ hỗ trợ sẽ chuyển sang tạo động lực vươn lên tự lập trong cuộc sống của người dân tộc thiểu số, ưu tiên tập trung đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Đại biểu Cao Thị Giang (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Bình) cũng cho rằng, khi ban hành chính sách cần chú trọng đến việc tác động để kích thích nội lực của người dân vùng dân tộc thiểu số, tránh việc làm hộ, làm thay. Để đạt được mục đích hiệu quả trên thì điều quan trọng là chú trọng quan tâm vấn đề đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt và cơ sở hạ tầng thiết yếu, đặc biệt là giao thông. Có các dự án đầu tư nhằm tạo cơ hội phát triển, các phương án phát triển sản xuất. Khi điều kiện sống của đồng bào đã được đáp ứng một cách cơ bản thì các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội cần chú trọng sâu vào nhóm hỗ trợ sinh kế và giáo dục. Đồng thời, cần phải tập trung nguồn lực cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tránh tình trạng nguồn lực bị phân tán, dàn trải như trong thời gian vừa qua.

Bảo đảm tính khả thi, công khai, minh bạch

Bên cạnh đó, đại biểu Nguyễn Thị Mai Hoa (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Tháp) và một số đại biểu bày tỏ băn khoăn về tính khả thi về các chỉ tiêu cụ thể được xác định trong Đề án. Thí dụ như về thu nhập, Đề án đề ra chỉ tiêu đến năm 2025 thu nhập của người dân tộc thiểu số tăng gấp đôi so với năm 2020, đến năm 2030 tăng gấp 2,5 lần so với năm 2026.

Hay về tỷ lệ lao động qua đào tạo, Đề án đề ra chỉ tiêu đến năm 2025 tỷ lệ này ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là khoảng 50%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ từ 10-15%, trong khi ở thời điểm hiện tại, tỷ lệ này trung bình mới đạt 6,2%...

Giải trình về các vấn đề trên, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến cho biết, về các chỉ tiêu cụ thể đến năm 2025-2030 của Đề án, Ban soạn thảo trong quá trình xây dựng đã bám sát vào nguyên tắc là các chỉ tiêu đề ra phải có căn cứ khoa học và thực tiễn, bảo đảm tính khả thi.

Qua khảo sát trực tiếp của Ban soạn thảo, hiện nay thu nhập thực tế bình quân một người dân tộc thiểu số vào khoảng từ 1,1 đến 1,2 triệu đồng/tháng, tương đương với 13-14 triệu đồng/năm. Như vậy, Đề án đề ra đến năm 2020 tăng gấp hai lần, đạt khoảng 26 đến 28 triệu đồng một năm. Trong khi đó, đến năm 2015 nước ta sẽ đạt 5.000 USD bình quân GDP trên đầu người.

Phát huy nội lực của đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi ảnh 2

Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến.

Bên cạnh đó, về thu nhập bình quân đầu người, các địa phương vùng dân tộc thiểu số và miền núi cũng đặt quyết tâm rất cao. Đơn cử năm 2020 so với năm 2015, Cao Bằng đề nghị tăng 2,1 lần, Quảng Ninh 2,2 lần, Hà Giang 1,85 lần, Hòa Bình 2,1 lần, Quảng Bình 2,5 lần, Ninh Thuận 2,0 lần, Gia Lai 2,1 lần, Sóc Trăng 1,8 lần, Bạc Liêu 2,1 lần.

Thêm vào đó, Chương trình tam nông xác định thu nhập của cư dân nông thôn tại Nghị quyết 26 Ban Chấp hành Trung ương Đảng sau 10 năm tăng 2,5 lần, nhưng thực tế qua tổng kết vừa qua là tăng 3,8 lần, bình quân tăng 1,9 lần trên 5 năm.

“Do vậy, Ban soạn thảo trân trọng đề nghị cho giữ mục tiêu tăng khoảng hai lần để từng hộ, từng thôn, từng xã quyết tâm phấn đấu và hằng năm có kiểm điểm thì như vậy mới có thể thực hiện được”, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến đề nghị.

Về chỉ tiêu đào tạo nghề cho người dân tộc thiểu số trong độ tuổi lao động hiện nay đạt 6,2%, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc cho biết, Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đề ra lao động qua đào tạo là 70%, trong đó có bằng cấp chứng chỉ là 25%-30%.

Do đó, Đề án đề ra chỉ tiêu lao động dân tộc thiểu số qua đào tạo khoảng 50%, trong đó tỷ lệ có cấp bằng, chứng chỉ từ 10-15% là phù hợp.

Phát huy nội lực của đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi ảnh 3

Toàn cảnh phiên thảo luận tại hội trường, sáng ngày 1-11.

Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến cũng khẳng định, sau khi được Quốc hội phê duyệt Đề án, trong tổ chức thực hiện sẽ bảo đảm nguyên tắc công khai, dân chủ, minh bạch, có sự giám sát và thực hiện của người dân, và có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả, thu gọn đầu mối, giảm thủ tục hành chính.

“Chính quyền cấp tỉnh quyết định điều hành thực hiện dự án phù hợp với địa phương, lấy đồng bào làm chủ thể, dân cần, dân bàn, dân làm, dân hưởng lợi, cán bộ chỉ hướng dẫn, giúp đỡ và chúng ta không thể làm thay người dân”, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến nói.

Các đại biểu Quốc hội cũng đã góp ý, tập trung vào các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để thực hiện Đề án. Theo đó, đề xuất Đề án cần quan tâm hơn tới các vấn đề như: giáo dục, đào tạo, y tế; phát triển lâm nghiệp; chính sách về đất ở, nhà ở; kết cấu hạ tầng thiết yếu, đặc biệt chú ý đến các nhóm dân tộc rất ít người; thực hiện bình đẳng giới; coi trọng công tác bảo tồn, phát huy các bản sắc văn hóa; đổi mới công tác thông tin truyền thông…

Đối với các vấn đề khác mà đại biểu Quốc hội nêu, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến cho biết sẽ tiếp thu một cách nghiêm túc, đồng thời sẽ nghiên cứu để điều chỉnh hợp lý khi xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia.

Không để ai bị bỏ lại phía sau

"Chúng tôi thống nhất ý kiến các đại biểu, Báo cáo thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, khi xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia sẽ xác định trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên theo hướng giải quyết tình trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, quy hoạch, sắp xếp ổn định dân cư, phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp gắn với sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị, đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân, phát triển nâng cao nguồn nhân lực, chăm sóc sức khỏe sinh sản phụ nữ, phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em, bảo tồn và phát huy văn hóa gắn với phát triển du lịch..."

Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến