Tháo gỡ “bẫy” trong chính sách

Trong một phiên họp hồi đầu năm nay, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng đã cảnh báo, trong quá trình xây dựng chính sách pháp luật có tình trạng “cài cắm câu chữ để bẫy doanh nghiệp”.

Quả thật, hệ thống văn bản pháp lý của chúng ta quả là có không ít trường hợp có các quy định như “phải có trang thiết bị phù hợp”, “phải có đội ngũ nhân sự đáp ứng được yêu cầu”… nhưng lại không giải thích thế nào là “phù hợp” thế nào là “đáp ứng được yêu cầu”… Chính cái sự chung chung đầy định tính, không rõ ràng này trở thành mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng.

Trong nhiều vụ án tham nhũng thời gian qua, kết luận của Thanh tra Chính phủ, của Kiểm toán Nhà nước nhiều lần khẳng định: những kẽ hở trong các quy định của pháp luật chính là một phần nguyên nhân dẫn đến những vụ án tham nhũng.

Hiện nay, quy trình xây dựng pháp luật của Việt Nam vẫn thường bắt đầu từ chính cơ quan thi hành đề xuất. Sau đó trải qua các giai đoạn lấy ý kiến, thẩm định, thẩm tra rồi cơ quan có thẩm quyền mới ban hành. Thông thường, khi lấy ý kiến các bộ, ngành, địa phương thì các đơn vị này chỉ phản đối một quy định nếu chúng có liên quan đến bộ ngành, địa phương mình. Hoạt động thẩm định được giao cho Bộ Tư pháp hoặc Vụ Pháp chế các bộ, ngành thì cũng chỉ thường tập trung vào tính thống nhất, nguy cơ trái luật, trái hiến pháp của văn bản, chứ ít khi cơ quan này tập trung ngăn chặn nguy cơ cài cắm chính sách.

Trong một số trường hợp, dự thảo văn bản pháp luật có được gửi cho các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng như Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước, Ban Nội chính Trung ương, Ủy ban Kiểm tra Trung ương để lấy ý kiến. Mặc dù vậy, do chưa được giao nhiệm vụ một cách rõ ràng, các cơ quan này cũng khó để chỉ rõ các nguy cơ tham nhũng, tiêu cực trong các dự thảo văn bản pháp luật.

Xây dựng cơ chế chính sách nên chăng cần tính đến việc, một mặt đăng tải công khai, lấy ý kiến rộng rãi đối tượng chịu tác động, mặt khác cũng cần hoàn thiện cơ chế kiểm soát nguy cơ cài cắm trong xây dựng pháp luật, xây dựng quy trình quản lý.

Theo kinh nghiệm của Hàn Quốc, cách tốt nhất để chống lại nguy cơ này là xây dựng một bộ phận chuyên môn độc lập có nhiệm vụ nghiên cứu quy định của dự thảo pháp luật, chỉ ra những điểm chưa minh bạch, chưa rõ ràng, định tính, trao quyền quá mức cho cán bộ thực thi trong việc diễn giải pháp luật. Đơn vị này cần được đặt độc lập tại một cơ quan ít tham gia vào quản lý nhà nước có mô hình như Ủy ban Kiểm tra, Ban Nội chính hoặc Kiểm toán Nhà nước ở Việt Nam.

Các dự thảo văn bản pháp luật phải được gửi cho đơn vị này để lấy ý kiến trước khi trình ký ban hành. Phương pháp làm việc có thể tiến tới chuẩn hóa như cắm cờ đỏ, cờ vàng, cờ xanh tương ứng với các quy định có nguy cơ tham nhũng cao, nguy cơ trung bình, nguy cơ thấp. Thêm nữa, điều này giúp quan sát được diễn biến của chất lượng văn bản pháp luật của Việt Nam qua thời gian, cũng như so sánh được giữa các bộ, ngành, hoặc các tiêu chí khác.

Quan điểm thẩm định của đơn vị này phải được báo cáo một cách trung thực, đầy đủ lên cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản đó và được công khai trước công luận. Trước đòi hỏi thực tế, rồi áp lực dư luận, áp lực chính trị, chắc rằng một dự thảo còn quá nhiều những “cờ đỏ” sẽ khó lòng được thông qua.