Kiểm soát và linh hoạt phương án ứng phó

Ðể chủ động ứng phó với hạn hán và bảo đảm nguồn nước cần phải có giải pháp ra sao? Nhân Dân cuối tuần đã có trao đổi với ông Châu Trần Vĩnh (ảnh bên) - Phó Cục trưởng Quản lý Tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT).

Kiểm soát và linh hoạt phương án ứng phó

- Ðồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL), đặc biệt là các địa phương ven biển đang trải qua một mùa khô chưa từng có. Hạn hán bủa vây, mặn xâm nhập sâu vào đất liền hàng chục, thậm chí cả trăm cây số. Dự báo khả năng tiếp tục xảy ra hạn hán, thiếu nước, nhất là từ tháng 4, tháng 5 tới sẽ là rất cao,... Vậy, phía Bộ TN&MT đã và đang thực hiện những biện pháp nào nhằm hạn chế tác động tiêu cực của tình trạng này, thưa ông?

- Hạn hán tại một số địa phương ở ÐBSCL thời gian qua một số thời điểm bằng, hoặc khốc liệt hơn năm 2016, nhưng nhờ có dự báo, cảnh báo tốt, sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, các địa phương nên thiệt hại giảm rất nhiều so với 2016. Thực tế, nhiều hồ chứa, đặc biệt là các hồ chứa lớn, quan trọng, lượng nước tích được đầu mùa cạn là không nhiều, chỉ từ 40 đến 75% tùy từng hồ, đặc biệt có hồ chứa chỉ tích được khoảng 20%. Các hồ chứa thủy lợi vừa và nhỏ cũng chỉ tích được 70 - 80%, nhiều hồ chỉ đạt 40 - 50%. Từ đầu tháng 12-2019 đến nay, Cục Quản lý Tài nguyên nước đã chủ động phối hợp với các địa phương, các chủ hồ để đôn đốc, bàn bạc phương án vận hành, có địa phương cũng đã chủ động đề xuất điều chỉnh giảm lưu lượng xả trong các tháng mùa cạn, hoặc cắt giảm diện tích sản xuất nông nghiệp trong điều kiện thiếu hụt nguồn nước.

Vì vậy, mặc dù lưu lượng đến các hồ chứa là rất nhỏ, nhưng hiện nay các hồ chứa vẫn duy trì được mực nước tối thiểu, hoặc nâng dần lên để có thể đủ nguồn nước cân đối cho mùa cạn. Ðối với các hồ chứa đang thiếu hụt nguồn nước, như hồ Cửa Ðạt (sông Mã), Bình Ðiền (sông Hương), A Vương (Vu Gia - Thu Bồn), Ka Nak (Ba), Sê San 4 (Sê San), Ðại Ninh (Ðồng Nai),… chúng tôi đã trình lãnh đạo Bộ có văn bản phối hợp, chỉ đạo điều hành các hồ chứa. Các hồ chứa này do vẫn thiếu hụt nên phương án điều chỉnh giảm lưu lượng xả xuống hạ du cho phù hợp để bảo đảm đủ nước cấp cho từ 5 đến 7 tháng còn lại của mùa cạn.

- Tình trạng thiếu nước kéo dài thời gian qua khiến tại một số địa phương, chính quyền cho khai thác nguồn nước ngầm để phục vụ sinh hoạt và sản xuất. Tuy nhiên, điều này lại dẫn đến những lo ngại về tình trạng suy thoái, cạn kiệt nguồn nước ngầm, sẽ gây nên nhiều hệ lụy không mong muốn như sụt lún, xâm nhập mặn?

- Rút kinh nghiệm từ đợt hạn mặn năm 2015-2016, chúng ta đã chủ động để ứng phó với đợt hạn mặn 2019-2020 mà theo dự báo có thể nghiêm trọng hơn đợt hạn mặn 2015-2016. Một số địa phương đã chủ động có phương án khai thác nguồn nước ngầm để cấp nước sinh hoạt, sản xuất trong tình huống chống hạn cấp bách.

Tuy nhiên, để bảo đảm vừa đáp ứng yêu cầu chống hạn, đồng thời tránh nguy cơ suy thoái, cạn kiệt nguồn nước ngầm thì giếng khoan phải được bố trí ở vị trí hợp lý, có thiết kế bảo đảm các yêu cầu kỹ thuật, khai thác với lưu lượng hợp lý để không làm hạ thấp mực nước quá mức gây ô nhiễm, xâm nhập mặn, sụt lún đất khi khai thác. Ðồng thời cũng phải có những giải pháp lâu dài để ứng phó, trong đó có việc đầu tư thăm dò, đánh giá trữ lượng, chất lượng nước ngầm để xây dựng các công trình khai thác lâu dài. Ứng phó với hạn mặn, đã có địa phương xây dựng nhà máy nước khai thác kết hợp giữa nước mặt, nước ngầm (Nhà máy nước Ngã Bảy, Hậu Giang) để cấp nước sinh hoạt, sản xuất, đây là mô hình cần nghiên cứu, xem xét để nhân rộng nhằm chủ động ứng phó với tình trạng hạn mặn ở vùng ÐBSCL.

- Rõ ràng, sự biến động bất thường của khí hậu đang đe dọa an ninh nguồn nước. Vậy, theo ông, để thiết lập khả năng tiếp cận nguồn cung cấp nước bền vững trước những thay đổi của biến đổi khí hậu (BÐKH), thời gian tới chúng ta cần phải làm gì?

- Trên thực tế, tài nguyên nước bị tác động mạnh nhất và trực tiếp nhất trước diễn biến của BÐKH, kéo theo các vấn đề về dân sinh, kinh tế và môi trường. Trong bối cảnh đó, cần tập trung vào các giải pháp, như: Xây dựng và phê duyệt quy hoạch tài nguyên nước quốc gia, quy hoạch tài nguyên nước các lưu vực sông lớn, đặc biệt là lưu vực sông Hồng, sông Cửu Long. Ðẩy mạnh thanh tra, kiểm tra; tăng cường giám sát việc khai thác sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước thông qua hình thức giám sát tự động, trực tuyến. Tổng kiểm kê tài nguyên nước quốc gia nhằm nắm chắc nguồn tài nguyên nước Việt Nam và hiện trạng khai thác sử dụng nước và xả nước thải vào nguồn nước. Tiếp theo là tăng cường giám sát, chỉ đạo việc vận hành các hồ chứa lớn, tuân thủ nghiêm ngặt quy trình vận hành liên hồ chứa trên 11 lưu vực sông quan trọng đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành. Cùng với đó, tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật, các biện pháp sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả đến tất cả các cấp, các ngành, các tổ chức cá nhân và cộng đồng dân cư.

Một trong những giải pháp để kiểm soát và quản lý nguồn nước trong bối cảnh BÐKH hiện nay là đầu tư các trạm quan trắc. Hiện tại, chúng ta đang xây dựng và đưa vào vận hành 27 trạm quan trắc tài nguyên nước mặt (đạt khoảng 48% so với quy hoạch); 52 trạm, 469 điểm, 983 công trình quan trắc tài nguyên nước dưới đất (đạt khoảng 73% số trạm, 60% số điểm và 63% số công trình so với quy hoạch). Ðồng thời, cần đổi mới cơ chế, nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước; tăng cường năng lực, bao gồm cả tổ chức, bộ máy, cơ sở vật chất, công cụ kỹ thuật, thông tin cho các cơ quan quản lý chuyên ngành về tài nguyên nước từ trung ương đến các cấp ở địa phương.

- Trân trọng cảm ơn ông!