70 năm Ban Kinh tế Trung ương cùng đất nước phát triển

Cách đây 70 năm, ngày 30 tháng 9 năm 1950, Ban Thường vụ Trung ương khóa I của Ðảng đã ban hành Quyết nghị số 57-QN/TW về thành lập Ban Kinh tế T.Ư (1). Theo đó, Ban Kinh tế T.Ư có nhiệm vụ nghiên cứu và đề nghị mọi chủ trương, chính sách về kinh tế, tài chính để giúp Trung ương lãnh đạo về kinh tế, tài chính. Kể từ đây, ngày 30 tháng 9 là Ngày truyền thống của Ban Kinh tế T.Ư. Sự ra đời của Ban Kinh tế T.Ư là bước phát triển mới của cách mạng Việt Nam trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

70 năm qua, Ban Kinh tế T.Ư đã tham mưu cho Ðảng đề ra các chủ trương, đường lối phát triển kinh tế - xã hội kịp thời, phù hợp với hoàn cảnh thực tế và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa kế thừa và phát triển, giữa kiên định và đổi mới trong từng giai đoạn. Các chủ trương, đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Ðảng do Ban Kinh tế T.Ư tham mưu, đề xuất đã được thể hiện đầy đủ, sâu sắc trong Cương lĩnh của Ðảng, các nghị quyết, kết luận, chỉ thị, quyết định của Trung ương Ðảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Trong đó, có những chủ trương, đường lối đã tạo ra những bước ngoặt có tính đột phá về phát triển kinh tế - xã hội, quyết định sự thành công của cách mạng Việt Nam, góp phần quan trọng vào quá trình định hình, xây dựng và hoàn thiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - mô hình tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Ngược dòng lịch sử, trong những năm đầu mới thành lập, trước bối cảnh đất nước đang trong thời chiến, tình hình phát triển kinh tế - xã hội gặp vô vàn khó khăn, trên cơ sở xác định nông nghiệp là nền tảng cho kinh tế kháng chiến và khôi phục phát triển kinh tế sau kháng chiến, Ban Kinh tế T.Ư đã tham mưu cho Trung ương Ðảng thực hiện triệt để giảm tô và tiến hành cải cách ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu "Người cày có ruộng". Chủ trương này đã khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân ta, tạo động lực để huy động kịp thời, đầy đủ sức người, sức của phục vụ kháng chiến thành công, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế đất nước phục hồi nhanh sau chiến thắng Ðiện Biên Phủ năm 1954. Ðến năm 1957, nền kinh tế miền bắc được phục hồi vượt mức cao nhất dưới thời Pháp thuộc (năm 1939). Trong những năm sau đó, Ban đã cùng các cơ quan của Ðảng, Nhà nước tập trung hoàn thành tốt nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế - xã hội. Kết quả của kế hoạch 3 năm giai đoạn 1958 - 1960 đã giúp miền bắc có những cơ sở công nghiệp quan trọng đầu tiên. Ðảng ta nhận định: "Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã giành được thắng lợi có tính chất quyết định"(2).

Ban Kinh tế T.Ư đã chủ động, tích cực tham gia nghiên cứu xây dựng đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở miền bắc. Những chính sách này đã góp phần làm thay đổi về chất nền kinh tế nước ta, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp. Hàng loạt các nhà máy công nghiệp cơ bản ở miền bắc được hình thành trong thời kỳ này. Kinh tế miền bắc, mặc dù bị đánh phá ác liệt, vừa sản xuất vừa chiến đấu, đã đứng vững và phát triển, đảm bảo kịp thời, đầy đủ nhân lực, vật lực cho tiền tuyến lớn miền nam với khẩu hiệu từ trái tim của nhân dân cả nước: "Gạo không thiếu một cân, quân không thiếu một người", "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng", "Tất cả vì miền nam ruột thịt", đã góp phần thực hiện thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thống nhất Tổ quốc.

Sau khi đất nước thống nhất, nền kinh tế sau chiến tranh gặp nhiều khó khăn và thách thức nghiêm trọng, lại phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh biên giới phía bắc và tây nam năm 1979, đã làm kiệt quệ nền kinh tế, trong điều kiện môi trường quốc tế bất lợi, viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em giảm sút, đất nước bị bao vây cấm vận, các nước xã hội chủ nghĩa Ðông Âu từng bước tan rã. Mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp; các cơ chế quản lý kinh tế trong thời chiến đã bộc lộ nhiều bất cập, kìm hãm sức sản xuất phát triển, lưu thông, phân phối trì trệ. Trước tình hình đó, Ban Kinh tế T.Ư đã chủ động bám sát, phân tích thực tiễn, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào hoàn cảnh thực tiễn nước ta để đề xuất các chủ trương, chính sách có ý nghĩa đột phá nhằm nhanh chóng đưa đất nước ra khỏi tình trạng trì trệ, phục hồi lại sức sản xuất. Từ những phát hiện trong thực tiễn cuộc sống, sau khi đã phối hợp với các bộ, ngành, địa phương nghiên cứu đánh giá kỹ lưỡng, Ban Kinh tế T.Ư đã kiến nghị với Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 100-CT/TW ngày 13-01-1981 về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp. Ðây được xem là một bước đột phá lớn về tư duy. Quyết sách này góp phần thay đổi nhanh chóng, sâu sắc diện mạo nông nghiệp, nông thôn; đồng thời khích lệ những thử nghiệm đổi mới cơ chế quản lý ra các lĩnh vực kinh tế khác. Sau đó, trên cơ sở tổng kết kết quả thí điểm, Ban Kinh tế T.Ư đã chủ động đề xuất Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp vào năm 1988. Ðây chính là kết quả của quá trình chủ động tìm tòi, học hỏi, đổi mới, và được xem là cột mốc quan trọng, phát pháo lệnh mở đầu cho công cuộc "Ðổi mới" đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Ðảng ta mà đến nay Nghị quyết này luôn được nhân dân ta nhắc tới bằng tất cả tình cảm chân thành của mình - với tên gọi "Khoán 10".

Trong công cuộc "Ðổi mới", Ban Kinh tế T.Ư luôn kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, nền tảng tư tưởng, những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhưng cũng luôn đề cao tinh thần đổi mới, biện chứng, không cứng nhắc, giáo điều, vận dụng sáng tạo, đúng đắn vào hoàn cảnh thực tiễn nước ta để tham mưu đúng và trúng, giúp Ban Chấp hành T.Ư, Bộ Chính trị, Ban Bí thư kịp thời đề ra những chủ trương, chính sách lớn về phát triển kinh tế - xã hội. Những thành công bước đầu đạt được trong đổi mới cơ chế quản lý một số lĩnh vực kinh tế đã được Ban Kinh tế T.Ư tổng kết, đúc rút để làm căn cứ cùng các cơ quan liên quan tham mưu cho Ðảng thực hiện bước đột phá lớn về tư duy quản lý kinh tế, từ bỏ cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp để chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,... Những tư tưởng lớn này đã được Ðại hội VI (năm 1986) của Ðảng khẳng định, tạo bước ngoặt lịch sử, mở ra trang sử Ðổi mới trong sự nghiệp phát triển đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cũng từ đó, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã hình thành và được Ðảng ta lựa chọn là mô hình tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Công cuộc Ðổi mới đã nhanh chóng làm thay đổi diện mạo đất nước, tạo ra thế và lực mới của nước ta trên trường quốc tế. Thuật ngữ "Ðổi mới" đã trở thành một thuật ngữ quốc tế để nói về quá trình chuyển đổi thành công của nền kinh tế Việt Nam. Ðã gần 35 năm thực hiện Ðổi mới nhưng tinh thần đổi mới của Ðảng ta, của nhân dân ta chưa bao giờ suy giảm mà ngày càng mạnh mẽ.

Giai đoạn 2001 - 2012 là giai đoạn nước ta chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Ban Kinh tế T.Ư tiếp tục được Bộ Chính trị giao chủ trì, chuẩn bị các nội dung quan trọng về phát triển lực lượng sản xuất và đổi mới quan hệ sản xuất để tạo điều kiện và năng lực tham gia hội nhập quốc tế một cách hiệu quả. Các chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn, xây dựng nông thôn mới; các chủ trương, giải pháp lớn thúc đẩy chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, thúc đẩy đầu tư ngoài nhà nước, chuyển dịch cơ cấu lao động; tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, xây dựng và phát triển các định chế tài chính; từng bước hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai; vấn đề sở hữu; cải cách doanh nghiệp nhà nước, cải cách nông - lâm trường quốc doanh trong nền kinh tế nhiều thành phần; phát triển kinh tế tập thể; phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài;... đều ghi dấu ấn công sức và trí tuệ của cán bộ, lãnh đạo Ban Kinh tế T.Ư.

Sau Ðại hội XI của Ðảng (năm 2011), nước ta chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc Ðổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng. Tuy nhiên, tình hình trong nước và quốc tế có nhiều khó khăn, thách thức không lường trước được. Những tồn tại, yếu kém đã tích tụ từ lâu trong nội tại nền kinh tế cùng với những tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu (2007 -
2008) đã đẩy kinh tế của nước ta vào tình thế hết sức nguy kịch, bên bờ vực của khủng hoảng, đổ vỡ. Kinh tế vĩ mô bất ổn nghiêm trọng, lạm phát tăng cao, thị trường tiền tệ chao đảo, hệ thống ngân hàng đứng trước nguy cơ đổ vỡ, doanh nghiệp phá sản hàng loạt, các cân đối lớn của nền kinh tế không bảo đảm, thanh khoản sụt giảm mạnh, vỡ bong bóng chứng khoán và thị trường bất động sản… Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo bình tĩnh, sáng suốt của Ðảng, sự điều hành quyết liệt, năng động, sáng tạo của Chính phủ, sự đồng lòng của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp, nước ta đã nhanh chóng vượt qua khủng hoảng, lập lại ổn định kinh tế vĩ mô, chặn đứng đà suy giảm kinh tế, tiếp tục duy trì mức tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước, đời sống nhân dân dần ổn định và được cải thiện không ngừng. Những thành tựu đó không những làm nức lòng nhân dân ta mà còn được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Nhiều kinh nghiệm của Việt Nam trong quá trình vượt qua khủng khoảng kinh tế - tài chính trong giai đoạn này được các tổ chức quốc tế hàng đầu như Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và các đối tác thương mại đầu tư xem là những bài học quý báu.

Sau Ðại hội Ðảng lần thứ XII (năm 2016), kinh tế nước ta đứng trước nhiều cơ hội thuận lợi: Kinh tế thế giới phục hồi mạnh và bền vững sau khủng hoảng kinh tế - tài chính, tạo điều kiện cho sản xuất và xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng mạnh và thu hút luồng vốn đầu tư nước ngoài cả trực tiếp và gián tiếp; nền tảng cơ chế, chính sách để ổn định kinh tế vĩ mô đã được thiết lập và kiểm nghiệm qua khủng hoảng; các dự án đầu tư lớn, đặc biệt là các dự án cơ sở hạ tầng giao thông đã được xây dựng trong thời kỳ trước, nay được đưa vào vận hành, sử dụng. Tuy nhiên, quá trình toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại, đầu tư đã làm gia tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường quốc tế lên một tầm cao mới, làm cho thế giới "phẳng" hơn. Trong thế giới ngày càng "phẳng" đó, vị thế, sức mạnh và năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc không những được biểu hiện ở các giá trị kinh tế mà quốc gia, dân tộc đó đang nắm giữ mà còn bị phụ thuộc và quyết định rất nhiều bởi thể chế phát triển kinh tế. Do vậy, nhiệm vụ đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế đáp ứng yêu cầu của tình hình mới lại đặt ra cấp thiết hơn bao giờ hết.

Nhằm nâng tầm tham mưu chiến lược về kinh tế - xã hội của Ban Kinh tế T.Ư, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Quyết định số 166-QÐ/TW ngày 18-12-2018 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ban Kinh tế T.Ư; trong đó xác định rõ chức năng của Ban Kinh tế T.Ư là cơ quan tham mưu chiến lược cho Ban Chấp hành T.Ư, trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trong việc định hướng xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế; hoạch định đường lối, chủ trương, giải pháp lớn, quan trọng về kinh tế - xã hội.

Tiếp nối, kế thừa truyền thống vẻ vang của các nhiệm kỳ trước, trong nhiệm kỳ Ðại hội khóa XII của Ðảng (2016 - 2020), Ban Kinh tế T.Ư đã được Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao chủ trì nhiều đề án trình Ban Chấp hành T.Ư, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trong đó tham mưu, ban hành 15 nghị quyết, kết luận của Ðảng trong lĩnh vực kinh tế - xã hội. Các nghị quyết, kết luận này kế thừa và phát triển các quan điểm, chủ trương xuyên suốt của Ðảng về kinh tế - xã hội qua các thời kỳ, đồng thời tạo bước đột phá, đổi mới sâu sắc, toàn diện về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, được nhân dân và quốc tế đồng tình, đánh giá cao.

Nhiều chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội ban hành trong nhiệm kỳ Ðại hội Ðảng XII đóng vai trò nền tảng, lâu dài cho sự phát triển của đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, như các nghị quyết về: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển kinh tế tư nhân; đổi mới và cơ cấu lại các doanh nghiệp nhà nước; chính sách đất đai; chiến lược phát triển năng lượng quốc gia; phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường... Một kỷ niệm khắc sâu trong tâm trí của những người xây dựng chủ trương, đường lối và đồng bào, chiến sĩ ta đó là việc đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã trực tiếp quyết định chọn số 10 cho Nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội với mong mỏi toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân ta ra sức phấn đấu để đưa Nghị quyết này vào cuộc sống, tạo ra bước đột phá mạnh mẽ như Nghị quyết về "Khoán 10" đã đạt được trước đây.

Ngoài tham mưu các chủ trương, chính sách chung về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Ban Kinh tế T.Ư còn chủ trì tham mưu nhiều nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh, thành phố có vai trò, vị trí quan trọng (3), trong đó chú trọng nghiên cứu, tổng kết các mô hình mới, cách làm hay, chính sách thí điểm trong phát triển kinh tế.

Bên cạnh nhiệm vụ nghiên cứu, tham mưu, đề xuất, Ban Kinh tế T.Ư còn thực hiện tốt việc thẩm định, tham gia ý kiến đối với các đề án, báo cáo có tính chiến lược và tầm ảnh hưởng lớn về phát triển kinh tế - xã hội. Phát huy trí tuệ, tầm nhìn chiến lược, tư duy đổi mới, sâu sắc về lý luận và thực tiễn phát triển đất nước cùng với bản lĩnh chính trị vững vàng, các ý kiến thẩm định, đóng góp của Ban Kinh tế T.Ư ngày càng sắc bén hơn, có trách nhiệm, khách quan, công tâm, thuyết phục, giúp các cơ quan có thêm cơ sở khoa học, thực tiễn để xem xét, quyết định, đặc biệt là các vấn đề quan trọng được Ðảng và nhân dân quan tâm.

Ðể hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, bên cạnh phát huy trí tuệ của đội ngũ cán bộ, Ban Kinh tế T.Ư đã chủ động, tích cực hợp tác, phối hợp với các ban Ðảng, Ðảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương, các địa phương, các chuyên gia, các nhà khoa học trong nước và quốc tế để tranh thủ tri thức, tập hợp trí tuệ phục vụ sự nghiệp Ðổi mới và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhiều năm qua, Ban Kinh tế T.Ư đã chủ trì, phối hợp tổ chức nhiều diễn đàn, hội nghị lớn về kinh tế thu hút sự tham gia đông đảo của các cơ quan, chuyên gia trong nước và quốc tế, không chỉ góp phần tuyên truyền, phổ biến, mà còn huy động trí tuệ của xã hội phục vụ xây dựng, hoàn thiện các đường lối, chủ trương, quyết sách lớn về kinh tế của Ðảng.

Những đóng góp tích cực, thiết thực và hiệu quả của Ban Kinh tế T.Ư trong những năm vừa qua đã tạo cơ sở vững chắc để Ban Chấp hành T.Ư, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tin tưởng khẳng định chủ trương tái lập Ban Kinh tế T.Ư vào 28-12-2012 là một chủ trương đúng đắn, sáng suốt, kịp thời của Ðảng, được đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khởi xướng và chỉ đạo, thể hiện rõ vai trò lãnh đạo của Ðảng đối với một nhiệm vụ trung tâm trong sự nghiệp cách mạng của Ðảng và nhân dân ta.

Ban Kinh tế T.Ư đã vinh dự được Ðảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều phần thưởng cao quý khác. Nhiều đồng chí lãnh đạo, cán bộ của Ban Kinh tế T.Ư qua các thời kỳ là những lãnh đạo xuất sắc của Ðảng và Nhà nước. Trong buổi làm việc với Ban Kinh tế T.Ư ngày 11-2-2017, đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã đánh giá "…Chưa bao giờ Ban Kinh tế Trung ương có được vị thế như ngày nay… Tôi thấy Ban Kinh tế Trung ương hoạt động ngày càng toàn diện hơn, có chất lượng cao hơn, nhuần nhuyễn hơn và có thêm nhiều kinh nghiệm… Các đồng chí đã thực hiện tốt các chức năng đặc trưng của Ban Kinh tế Trung ương". Ðây là những ghi nhận quý báu của Ðảng và Nhà nước đối với những đóng góp của Ban Kinh tế T.Ư cho sự nghiệp cách mạng; là kết tinh nỗ lực phấn đấu, cống hiến bền bỉ, liên tục của các thế hệ lãnh đạo, cán bộ, công chức, viên chức của Ban Kinh tế T.Ư trong suốt 70 năm qua; tiếp thêm niềm tự hào và nguồn động viên lớn lao cho lớp cán bộ hôm nay và mai sau của Ban Kinh tế T.Ư viết tiếp những chương thành công trên con đường phát triển phía trước.

Với hành trang truyền thống 70 năm đồng hành với những chặng đường vẻ vang của cách mạng Việt Nam, tập thể cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức Ban Kinh tế T.Ư tiếp tục kiên định mục tiêu, lý tưởng của Ðảng, giữ vững bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng, không ngừng nỗ lực rèn luyện vươn lên, đổi mới, nâng tầm trí tuệ, kết hợp giữa lý luận sắc bén và thực tiễn sâu sát để luôn xứng đáng là cơ quan tham mưu chiến lược tin cậy về kinh tế - xã hội của Ðảng, cùng cách mạng Việt Nam đi đến bến bờ thành công của chủ nghĩa xã hội.

(1) Do trải qua thời gian, các ban kinh tế của Ðảng như Ban Nông nghiệp T.Ư, Ban Tài chính - Thương nghiệp T.Ư, Ban Công nghiệp T.Ư, Ban Cơ khí T.Ư… đã được thống nhất với Ban Kinh tế T.Ư. Ðến Ðại hội VIII của Ðảng năm 1996, Ban Kinh tế T.Ư là cơ quan tham mưu duy nhất về kinh tế cho Trung ương Ðảng, trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Do vậy, trong bài viết này, giai đoạn từ năm 1996 trở về trước, "Ban Kinh tế Trung ương" được hiểu bao gồm Ban Kinh tế T.Ư và các ban Ðảng trong lĩnh vực kinh tế.

(2) Báo cáo về Nhiệm vụ và phương hướng của Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất phát triển kinh tế quốc dân (1961 - 1965). Báo cáo bổ sung tại Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III do đồng chí Nguyễn Duy Trinh trình bày, ngày 7-9-1960.

(3) Chỉ riêng thời kỳ 2016 - 2020, Ban Kinh tế T.Ư đã chủ trì xây dựng, tham mưu Bộ Chính trị ban hành các nghị quyết, kết luận xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội cho các tỉnh, thành phố: Ðà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ, Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế, thành phố Buôn Ma Thuột; đồng thời, tham gia phối hợp, thẩm định đề án về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù cho TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh.

TSKH NGUYỄN VĂN BÌNH

Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư T.Ư Ðảng,

Trưởng Ban Kinh tế T.Ư