Ăn chung

1 Giọng có chút ngậm ngùi, Thào Hùng Khải nhớ lại: Ngày đầu từ Nguyên Bình (Cao Bằng) đến với đất Bảo Lâm (Lâm Ðồng) hơn hai mươi năm trước, người Mông bản anh chỉ mang theo cái bồng vải trên lưng bên trong có mấy nắm hạt giống, vài ba cái lưỡi cuốc, lưỡi cày. Tài sản người Mông di cư từ vùng núi đá phía bắc đến cao nguyên đất đỏ phía nam chỉ vậy, không có gì khác ngoài cái đói, cái nghèo và khao khát đổi đời. Nơi Khải cùng bản Mông của anh tìm đến lập cư là vùng rừng sâu, quê hương của đồng bào Cơ Ho bản địa. Người miền núi nơi này cũng nghèo, cũng khổ không hơn gì những người anh em từ phương xa đến. Chỉ khác chăng, họ là “chủ

Thào Hùng Khải kể mà ánh mắt như có ngấn nước: Rồi người Mông bản anh cũng tìm được nơi lập bản mới giữa rừng sâu Lâm Ðồng. Dù đó là vùng xa xôi heo hút nhất nhưng đất ruộng, đất nương hầu như đều đã có chủ. Chưa kiếm được cái ăn cho đỡ đói lòng những ngày mới xa quê xưa, bản cũ, người Mông trên quê mới càng thêm phần lo lắng, hoang mang cho cuộc mưu sinh phía trước khi chưa biết cách nào tìm ra chỗ trồng tỉa. Ðã qua mấy ngày chặt cây lợp lán, người trẻ người già đang mệt mỏi rã rời sau cuộc hành trình dài thì bản Mông có khách đến thăm. Khách của họ là già làng K’Gíp và những người đàn ông, đàn bà Cơ Ho ở buôn kế bên. Quà mà khách mang đến là một ché lớn rượu cần, một nửa con thú săn mấy bữa trước, những mớ rau rừng vừa hái, những gùi bắp bẻ vội từ nương. Khi những chiếc gùi được đặt xuống từ lưng những người phụ nữ thì bữa tiệc kết giao liền đó cũng được mở ra giữa bãi cỏ bên suối. Phụ nữ nướng thịt, đàn ông khui rượu. Giọng nói, câu cười rộn rã, lẫn lộn tiếng Mông, tiếng Cơ Ho. Ngà ngà say, già làng K’Gíp chém tay xuống đất và nói: “Là bắc hay nam thì anh em chúng ta cũng là người gắn bó máu thịt với rừng. Sống ở rừng, cứ tuân theo luật của rừng mà ứng xử. Có chỗ đất tốt thì nhường cho nhau vài thửa, có miếng thịt, mớ rau thì san sẻ cho nhau một ít. Của rừng thì cùng ăn chung mà!”.

Già làng K’Gíp giơ bàn tay lên cao và khoanh một vòng ở vùng đất trước mặt, nơi có dòng suối trong lành chảy qua: “Ðây là phần đất của ông bà người Cơ Ho mình, từ nay nhường người Mông trồng tỉa chỗ này. Gieo cây bắp, cây đậu mà có cái ăn trước mắt rồi thì trồng cây lúa, cây chè, cây cà-phê, nuôi con gà, con heo ăn sau…”. Thào Hùng Khải và những người Mông bản anh không thể nói gì, chỉ biết lặng thầm cảm kích trước tấm chân tình của những người đồng bào khác tộc. Khải nói, từ ngày đó cho đến bây giờ, bản Mông và buôn Cơ Ho chơi lễ, vui hội chung, uống chung, ăn chung, no đói có nhau, vui buồn cùng chia sẻ…

2 Ai cũng biết, người Mông vốn săn bắn giỏi. Ðàn ông Mông đã mang ná vào rừng là có thú dính vào mũi tên, đã đặt bẫy là có thú bị sập. Người Mông đến lập cư trên quê mới cũng coi việc săn bắn là sở thích và nghề mưu sinh. Bẫy đặt giữa rừng sâu, lâu lâu chủ mới ghé thăm. Nếu bắt được thú to thì kêu cả bản khiêng về, xẻ thịt ăn chung. Nhiều người bạn dân tộc bản địa kể rằng, người Mông thường khiêm nhường nói với họ: “Gặp bẫy của người Mông ta giữa rừng có thú bị sập cứ lấy về ăn, đừng phá hư cái bẫy là được. Của rừng thì cùng ăn chung mà!”. Những “chủ rừng” cũ ở Tây Nguyên như người Cơ Ho, người Mạ, người S’Tiêng, người Mơ Nông cũng nói với người Mông, người Thái, người Tày, người Nùng mới di cư đến: “Qua rẫy của ta, nếu vợ con anh ở nhà đói thì cứ bẻ bắp, suốt lúa đưa về mà ăn. À mà chọn cái bắp già, đừng bẻ bắp non mà đau cái cây. Lúa cũng vậy, đừng suốt hạt lúa khi còn ngậm sữa, Yàng Koi phạt đấy”. Họ cũng dặn những người bạn mới: “Ðến nhà khi ta đi vắng, nếu khát thì ra sau hè lấy nước mà uống, đói thì vục bát vào nồi măng nứa nấu với cá suối giữa bếp mà ăn. Mệt thì cứ leo lên sàn mà ngủ. Ta về kịp gặp nhau thì cùng uống rượu cần, cùng ăn chung nhé!”…

Sống trên cao, những tộc người xứ núi không biết đến ngôn ngữ màu mè, họ không có nhiều lời để giải thích những việc mình làm. Họ chỉ biết nghĩ rằng, cha ông làm sao thì mình làm vậy. Cũng từ triết lý ăn chung mà người Cơ Ho, người Mạ bản địa lâu đời đã dành cho người Chu Ru cả một vùng ruộng nương, núi rừng màu mỡ bên dòng sông Ða Nhim, vì họ biết người anh em đến sau này giỏi làm ruộng nước và nhào đất nung gốm, những việc họ không giỏi. Cũng từ triết lý ăn chung mà người Chăm thạo chuyện kinh doanh đã mang chiếu lác, thổ cẩm, đồ rèn của người Lạch đi khắp chốn bán thay vì người Lạch biết làm ra sản phẩm mà không có kỹ năng buôn bán. Trong cuộc cộng sinh này, cả người làm và người bán cùng được hưởng chung nguồn lợi công bằng…

Hấp thu minh triết của rừng, các dân tộc anh em đã ứng xử với nhau bằng một đạo lý sẻ chia nguồn sống một cách tự nhiên. Luật không thành văn của những sắc tộc cùng nhau sinh tồn giữa không gian đại ngàn có nguồn gốc từ nhân tình vốn có, bình thường mà cao cả. Sự cộng cảm qua triết lý ăn chung của họ làm cho núi rừng thêm hùng vĩ, thiêng liêng. Nét đẹp trong phương cách ứng xử giữa miền cao nguyên viết thêm giai điệu để những đỉnh núi vang mãi khúc du ca về lòng yêu thương.