Loại bỏ khối u bạch huyết khổng lồ cho bệnh nhi 20 tháng tuổi

NDO -

NDĐT – Sau ba giờ đồng hồ căng thẳng, các bác sĩ Bệnh viện Nhi Trung ương đã loại bỏ khối u bạch huyết khổng lồ trên cơ thể bé trai NTL (20 tháng tuổi, Thanh Hóa).

Loại bỏ khối u bạch huyết khổng lồ cho bệnh nhi 20 tháng tuổi

Bé NTL sinh ra khỏe mạnh nhưng một bên đùi trái có khối u to chiếm toàn bộ mặt sau, ngoài đùi. Các bác sĩ bệnh viện địa phương chẩn đoán cháu mắc khối u bạch huyết và chỉ định điều trị nội khoa (tiêm xơ) cho bé. Sau 10 tháng điều trị nhưng bệnh tình không tiến triển, bé được gia đình đưa đến khám tại Bệnh viện Nhi Trung ương.

Bác sĩ Nguyễn Vũ Hoàng, Khoa Chỉnh hình nhi cho biết, sau khi thăm khám và chụp cộng hưởng từ, các bác sĩ kết luận bé Long có khối u bạch huyết nằm ở toàn bộ mặt sau cơ đùi trái. Do kích thước khối u lúc này đã rất lớn (5,3x16x17cm), nếu không loại bỏ sẽ ảnh hưởng đến chức năng vận động. Bé được các bác sĩ chỉ định làm các xét nghiệm cơ bản để tiến hành phẫu thuật.

“Sau ca phẫu thuật kéo dài ba giờ, khối u được giải phóng khỏi cơ thể bệnh nhi. bệnh nhi đã được chúng tôi tiến hành tiêm xơ làm giảm tỷ lệ tái phát, tạo hình vạt da cơ đùi sau, giúp hình thể đùi gọn lại. Đây là một phẫu thuật phức tạp do thời gian gây mê lâu, phẫu tích khối u nằm trong cơ đùi gần thần kinh hông to, thần kinh đùi, bệnh nhân dễ mất máu, mất dịch thể”, BS Hoàng cho biết.

Theo TS, BS Hoàng Hải Đức, Trưởng khoa Chỉnh hình nhi, Bệnh viện Nhi Trung ương, u bạch huyết là dị tật của hệ thống bạch huyết, có thể gặp ở mọi lứa tuổi và mọi vị trí của cơ thể. Trong đó, 90% xảy ra ở trẻ em dưới hai tuổi và hay gặp ở vùng đầu, cổ. Trường hợp của bé Long thuộc dạng u bạch huyết bẩm sinh và có thể chẩn đoán trước sinh, trong thời kỳ bào thai, qua siêu âm thai.

U bạch huyết có thể bị từ khi còn bé, bẩm sinh; hoặc mắc phải sau chấn thương; hoặc tắc nghẽn bạch huyết. Trong một số trường hợp tổn thương u bạch huyết có thể ảnh hưởng đến chức năng vận động nhất là khi khối u to ở chân hoặc tay.

Có ba loại u bạch huyết với các triệu chứng biểu hiện của bệnh tùy thuộc vào kích thước và độ sâu của các mạch bạch huyết bất thường gồm u bạch huyết dạng mao mạch thường thấy ở bề mặt da; u bạch huyết dạng hang thường thấy ngay từ khi mới sinh; u bạch huyết dạng nang.

Nguyên nhân trực tiếp của u bạch huyết là sự tắc nghẽn của hệ thống bạch huyết từ thời kỳ bào thai, mặc dù các triệu chứng có thể không phát hiện được trong giai đoạn mang thai của người mẹ cho đến khi em bé được sinh ra. Tắc nghẽn này được cho là gây ra bởi một số yếu tố, bao gồm: mẹ sử dụng rượu và nhiễm virus trong thời kỳ mang thai.

BS Đức cho biết, các u bạch huyết có thể gây ra các biến chứng như gây ra chảy máu nhỏ, viêm mô tế bào tái phát và rò rỉ dịch bạch huyết. Nếu u bạch huyết dạng nang có kích thước lớn ở vùng cổ có thể gây khó nuốt, các rối loạn hô hấp và nhiễm trùng. Các biến chứng sau khi phẫu thuật cắt bỏ nang bạch huyết có thể gặp là tổn thương các cấu trúc cơ quan vùng cổ, nhiễm trùng và bệnh tái phát.