Nhân lực du lịch chưa xứng tầm

Theo Báo cáo năng lực cạnh tranh ngành lữ hành và du lịch 2019 vừa được Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) công bố, Việt Nam đã tăng bốn bậc từ vị trí 67/136 lên 63/140 với nhiều chỉ số được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, vấn đề hạn chế có thể cản trở sự phát triển của ngành trong những năm tới vẫn là: chất lượng lao động.

Phần lớn lao động nghề du lịch ra trường khó đáp ứng được yêu cầu công việc.
Phần lớn lao động nghề du lịch ra trường khó đáp ứng được yêu cầu công việc.

Chỉ 20% nhân lực đáp ứng nhu cầu

Một chuyên viên Phòng Văn hóa - Thể thao huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi cho hay, mỗi năm Bệnh xá Đặng Thùy Trâm đón hàng nghìn lượt khách đến tham quan. Với du khách người Việt, chị có thể dễ dàng thuyết minh về các hình ảnh tư liệu, hiện vật để du khách có thể hiểu rõ hơn về cuộc đời hoạt động cách mạng của nữ anh hùng, liệt sĩ, bác sĩ Đặng Thùy Trâm. Nhưng với du khách người nước ngoài, hầu như họ chỉ được “xem chay” hiện vật, hình ảnh vì trình độ tiếng Anh của các nhân viên ở đây còn hạn chế.

Cũng tại tỉnh Quảng Ngãi, khi du khách nước ngoài đến tham quan các di tích lịch sử, các trầm tích núi lửa trên đảo Lý Sơn, thuộc văn hóa Sa Huỳnh..., do các thuyết minh viên ở đây chưa được đào tạo tiếng Anh bài bản, kiến thức tiếng Anh chuyên sâu về lĩnh vực địa chất cũng không có, chưa truyền tải được rõ ràng ý nghĩa văn hóa, lịch sử, cảm xúc đến du khách.

Đây cũng là tình trạng chung của rất nhiều điểm du lịch hiện nay, đặc biệt tại các tỉnh lẻ! Còn tại Hà Nội, một chủ khách sạn trên địa bàn quận Tây Hồ chia sẻ: “Khi tuyển vị trí lễ tân, hầu như các ứng viên đều viết mình có trình độ ngoại ngữ giao tiếp cơ bản hoặc trung cấp. Nhưng khi đi vào phục vụ khách thì các bạn lại lúng túng, ấm ớ không nói nên lời. Tôi cho rằng các bạn chưa có kinh nghiệm trong giao tiếp trên thực tế”.

Nhiều doanh nghiệp kinh doanh lưu trú thường phải “đau đầu” kiếm nguồn nhân lực vừa có kỹ năng ngoại ngữ vừa có chuyên môn du lịch. Ngoài nhân viên chính thức, công ty còn phải tuyển dụng lao động theo mùa. Chưa kể, nhân sự trẻ có khả năng tốt lại hay “nhảy việc” khi có nơi khác trả lương cao hơn. Thống kê của Hiệp hội Du lịch và Hiệp hội Khách sạn Việt Nam cho thấy, có tới 30 - 45% hướng dẫn viên du lịch, điều hành tour và 70 - 80% nhân viên lễ tân nhà hàng không đạt chuẩn ngoại ngữ. Một nguyên nhân được đưa ra là vì tiêu chuẩn đầu ra của các trường đào tạo đều nằm dưới chuẩn so quốc tế. Do đó, phần đông sinh viên Việt Nam mới tốt nghiệp các trường, khóa đào tạo về du lịch mới chỉ đáp ứng được các công việc lao động phổ thông.

Còn theo số liệu của Lumina Co., công ty phân tích và tư vấn toàn cầu về tất cả các lĩnh vực, cho thấy: Hiện nay, chỉ có 11% con số những người được đào tạo ra ở Việt Nam có thể được các tập đoàn lớn về du lịch có đầu tư nước ngoài ở Việt Nam chấp nhận sử dụng. Các chuyên gia đánh giá, một trong những điểm yếu nhất của nhân lực du lịch Việt Nam hiện nay là thiếu và yếu kỹ năng nghề. Với phương pháp đào tạo nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành ở đa số các cơ sở đào tạo hiện nay, phần lớn lao động nghề du lịch ra trường khó đáp ứng được yêu cầu công việc.

Bao giờ hết đào tạo lại?

Lãnh đạo một khách sạn năm sao trên địa bàn quận Tây Hồ phân tích: “Theo chương trình đào tạo suốt bốn năm học, các em chỉ có 12 tuần thực hành. Trong khi đó, để thật sự đem lại sự hài lòng cho khách đòi hỏi những kỹ năng vô thức. Chẳng hạn, cách khách năm bước chân, nhân viên đã phải nhìn vào mắt khách, khi họ đến gần hơn phải hỏi chuyện…

Để làm tốt kỹ năng này thôi, bình thường nhân viên khách sạn phải thực hành từ bảy đến 21 lần mới thuần thục. Một nhân viên thông thường cần khoảng 52 - 100 kỹ năng như vậy. Người bình thường cần một năm để học các kỹ năng trong một công việc. Với bốn tuần thực hành của sinh viên, riêng tuần đầu các em phải làm quen với khách sạn, từ môi trường làm việc, đường đi lối lại… Vậy làm thế nào các em học kịp được?”.

Bên cạnh đó, theo đánh giá của nhiều chuyên gia, nếu so sánh điều kiện cơ sở vật chất của các cơ sở đào tạo với khách sạn bốn, năm sao - nơi thị trường đang thiếu nhiều nhân lực, thì khoảng cách là rất xa vời. Vậy nên, điều dễ hiểu là nhiều sinh viên ra trường thiếu kinh nghiệm, yếu kỹ năng, không tìm được việc làm, còn ngành du lịch nhiều năm qua càng tăng trưởng mạnh thì nhân lực du lịch càng lâm vào tình trạng “thừa vẫn thừa, thiếu vẫn thiếu”.

Gần đây, sự xuất hiện của các nhà đầu tư chiến lược cùng với sự tăng trưởng nhanh chóng cả về chất và lượng trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, đặc biệt là tại những thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng… đã góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch. “Việc xã hội hóa đào tạo nhân lực du lịch, đặc biệt trong các tập đoàn chuyên kinh doanh về du lịch sẽ góp phần khiến chất lượng đầu ra tốt hơn, góp phần nâng cao kỹ năng, ngoại ngữ cho người làm việc trong ngành du lịch. Đây là giải pháp tốt trong thời gian hiện nay khi nhiều học sinh ra trường chưa đủ kỹ năng cao cấp, chuyên nghiệp để phục vụ trong cơ sở của họ. Một mặt, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho cơ sở của chính họ. Đồng thời, cung cấp cho xã hội, cho các cơ sở lưu trú, vui chơi giải trí khác”, bà Nguyễn Thị Thanh Hương, Phó Tổng cục trưởng Du lịch nhận định.

Khảo sát thực tế cho thấy, hầu hết các cơ sở lưu trú cao cấp, các khu vui chơi giải trí lớn muốn có nhân lực phù hợp, đáp ứng yêu cầu thì đều phải… “đào tạo” lại. 20% nhân lực du lịch đáp ứng được nhu cầu thị trường theo đánh giá của Chủ tịch Hiệp hội Khách sạn Việt Nam có sự đóng góp đào tạo tương đối lớn từ chính những cơ sở lưu trú cao cấp.