Gánh hàng rong xưa...

Thuở ấy, người dân quê khép kín sau lũy tre làng, vốn đã quen tự cung tự cấp, nhu cầu cuộc sống cũng giản đơn nên chẳng mấy ai thiết nghĩ đến chuyện giao thương bên ngoài. Phiên chợ quê cũng chỉ đơn thuần là nơi trao đổi hàng hóa thiết yếu cho cuộc sống thôn quê. Thế nên nhờ có tiếng rao của gánh hàng rong mà xóm làng tôi chộn rộn đôi phần.

Ảnh: HẢI NAM
Ảnh: HẢI NAM

Tôi vẫn nhớ như in bà buôn đồng nát hay ở trọ lại nhà tôi. Thuở ấy, chưa có xe đạp nên bà chỉ đi bộ, quảy trên vai một đôi gánh, một đầu là xoong nồi bằng nhôm mới, một bên là những thứ đồng nát bà đổi được cộng thêm gói kẹo cau để “hối lộ” con nít. Bà tử tế, biết điều nên cha tôi rất nể bà, cho bà ở và đổi cho bà rất nhiều thứ mỗi lần bà lên. Những nồi đồng, mâm đồng nặng trịch, thậm chí là dây phơi quần áo bằng đồng cũng được đổi cho bà để lấy những dụng cụ nhà bếp hiện đại và nhẹ hơn. Có lần, bà đổi được của nhà ai trên mạn ngược một chiếc bàn là con gà bằng đồng ủi than, nhượng lại cho nhà tôi, bởi bà biết nhà tôi nhiều con gái nên cần là quần áo cho phẳng phiu. Tôi vẫn còn mường tượng được hình dáng và giọng rao trầm ấm mà thôi thúc của bà: “Ai có nồi đồng, xoong thủng, dép nhựa hư hỏng bán đổi xoong mới đê… đê”.

Hiện đại hơn bà đồng nát là anh bán kem que. Một chiếc xe đạp cà tàng đèo sau là một thùng gỗ được bọc bằng xốp, đựng trong đó là nỗi ước ao của mọi đứa trẻ quê. Anh không rao mà có chiếc kèn bóp bằng tay kêu lên âm thanh “bọp!… bọp!”. Anh đến làng nào cũng túa ra đầy những lũ trẻ vây quanh: đứa thì chiếc dép hỏng, đứa thì chiếc xoong sứt quai hoặc thủng đáy, đứa khác là đùm lông vịt, có đứa là một mớ tiền lẻ vò nhàu… Tay háo hức cầm que kem mát lịm, mắt sáng rực nỗi khát thèm. Chiếc kem que, đá nhiều hơn đường sữa thế mà quyến rũ suốt cả một thời thơ dại. Có được que kem, đứa nào cũng chỉ dám mút nhẹ cho nó tan dần nơi đầu lưỡi chứ nào dám cắn bởi sợ nhanh hết. Nếu hai anh em mà chỉ có một chiếc kem thì lần lượt luân phiên nhau mút, rồi nạnh nhau chí chóe vì đứa này mút lâu hơn đứa kia đến nỗi mẹ phải giảng hòa…

Cũng đi xe đạp để bán hàng rong nhưng vất vả hơn anh bán kem là chị bán muối (thực ra là đổi muối). Những diêm dân đạp xe mấy chục cây số, đi từ sáng tinh mơ đến non trưa mới tới được làng tôi. Sau xe là bì xác rắn đựng đầy muối, trước ghi-đông là chiếc cân quả móc, người ướt đẫm mồ hôi, rướn giọng rao “Ai muối không ?”. Hồi ấy, gia vị chính trong mỗi bữa ăn của mọi gia đình là muối nên rất nhanh hết. Hơn nữa nếu đổi muối nhiều để trong chiếc nừng (dụng cụ đan bằng nứa) thì nó cũng sẽ chảy nước. Dạo quanh một vòng trong làng là bì muối đã vơi cạn thay vào đó là lưng bì lúa. Bữa nay chị này, ngày mai chị khác, đường làng không mấy khi vắng tiếng rao đổi muối. Khi nghe tôi nói thương người đổi muối vất vả giữa trưa nắng chang chang, mẹ tôi bảo: Dân quê mình ai cũng đáng thương. Ừ thì diêm dân hay nông dân cũng gian nan, cũng tay làm hàm nhai cả thôi.

Những tiếng rao khó nhọc của một thời khó nhọc trên những đường làng cứ vang vọng trong tâm trí tôi…