Nơi neo giữ ký ức

Tập tản văn “Miền sau cánh cửa” (NXB Văn học) của nhà báo, nhà thơ Trần Nhật Minh với 38 tản văn vừa vặn, gom những cảm xúc tác giả ghi lại sau mỗi chuyến đi, gợi những vùng ký ức thẳm sâu, chỉ cần chạm vào là bung thành khắc khoải.

Nơi neo giữ ký ức

Miền quá vãng của tuổi thơ Hà Nội, những năm tháng nghèo khó mà thương mến. Một Hà Nội thanh đạm của những năm 70 thế kỷ trước lưu dấu trong nỗi nhớ của tác giả: hàng phố sâu hun hút đêm đông giá rét, những mái ngói âm dương, phố Lãn Ông, Thuốc Bắc, Lò Rèn, là gánh hàng rong “tiếng rao như phận người”... Ta gặp lại phở Hà Nội với sự quan sát tỉ mỉ, cả sự trải nghiệm về món ăn xa xỉ của người nghèo. Nhớ thương là thế, vấn vít là thế nên mới ví von, dí dỏm, phở trở thành một khái niệm trừu tượng mà đọc lên ta cứ cười thầm, à ra thế. Sẽ ngẫm ngợi thật lâu khi dừng lại nếp nhà cũ xưa, một Hà Nội khiêm nhường, cổ kính mà nghèo khó phía sau cánh cửa “…những hôm mưa dầm gió bấc, mất điện, mái ngói thẫm buồn, căn gác như trôi ngoài bờ gió. Từng giọt nước mưa đọng trên vì kèo tí tách nhỏ xuống, tong tỏng gõ nhịp vào chiếc xô thủng. Cả nhà quây quần bên chiếc đèn dầu mong manh. Bên ngoài mưa lạnh, tiếng rao đêm hắt qua khe cửa, đơn côi như chủ nhân của nó” (Mùa đông thương nhớ). Một Hà Nội với những gì gần gũi, quen thân trong “Bia đầu ô”: “Nghe Hà Nội thở/trong vại bia chiều”… cồn cào nhớ bia hơi đầu ô. Nó không phải là thứ men say thông thường nữa rồi. Nó là “hương vị” riêng không lẫn được của Hà Nội. Một “Hà Nội của tôi ơi, tôi nhớ một hồ sen tĩnh lặng, từ lúc sen non nhu nhú cho đến khi lá tàn khô, nâu hoang hoải. Tôi đi qua những đám đông loay hoay kiếm tìm sự tao nhã. Hà Nội sẽ ra sao nếu thiếu vắng những mùa sen. Hà Nội rộng thênh của tôi ơi” (Đi qua mùa sen ồn ã). 

Đó còn là những thổn thức về làng quê, bồ thóc, hạt gạo, khói bếp, rạ rơm, thức gợi ta về miền tuổi thơ xa thẳm trong “Làng”, “Mồ hôi làng”, “Mang mang mùi khói”. Mỗi miền đất, mỗi chuyến đi, những hành trình nối tiếp trong suốt quãng đời làm báo từ bắc vào nam của Trần Nhật Minh đều lưu lại bằng những trang viết thấm tình đời, tình người. Ta bắt gặp một thầy giáo kiêm xe ôm, một nữ đồng nghiệp đài huyện, một sinh viên văn khoa người Tày… họ chọn núi cao để trở về, dâng hiến cuộc đời thầm lặng, những con người mà khi chia tay rồi vẫn còn luyến lưu, bịn rịn: “Buổi chia tay em mặc một chiếc áo đỏ như để chúng tôi khỏi quên buổi gặp gỡ giữa những đồng nghiệp nhà đài. Mầu áo đỏ giữa thị trấn nghèo, mầu hoa mía dọc triền sông Đà, không dễ gì gặp lại. Những rẻo đất, bản làng, địa danh như Hang Kia, Pà Cò, Bản Lác, Bản Văn, Mường Cang, Púng Bánh, Mường Lèo, Mường Toong… đã được gọi tên thao thiết, nhắc nhớ với những dòng cảm xúc đong đầy. Tiếp tục hành trình với những địa danh ở miền Tây Nam Bộ, là đất mũi Cà Mau, là Cần Thơ, là những chuyến xe đò ngược xuôi mà mỗi khi nhớ về là cay cay nơi sống mũi: “… nghe lại trong ký ức những âm thanh bến xe với tiếng ca cổ rỉ ra từ đôi loa cũ, lòng lại nao nao nhớ những ngày lang bang đất lạ” (Những chuyến xe đò)

38 lát cắt về nỗi nhớ, chia nhỏ những thổn thức, những trào dâng, vì thế mà ta được thức gợi và đồng cảm. Cả thiên tản văn khoác một màu không khí hoài niệm, đầy thương mến. Để lúc nào đó, lòng chợt lắng lại, để cảm nhận thật sâu nỗi nhớ, về những năm tháng buồn vui và đong đầy thương yêu…