Triển vọng tăng trưởng kinh tế 2020

Bức tranh kinh tế Việt Nam 2019 đã khép lại với xu hướng tăng trưởng tích cực của nền tảng kinh tế vĩ mô, tạo đà đi lên trong năm 2020. Tuy nhiên, sự bất định của kinh tế thế giới và khó khăn tiềm ẩn trong nội tại nền kinh tế là yếu tố cần thận trọng. Về triển vọng giai đoạn 2019 - 2020, tuy nền kinh tế hiện tương đối khỏe mạnh, nhưng cần nhìn rõ các thách thức phải đối mặt để đánh giá đúng các ảnh hưởng dài hạn.

Kinh tế Việt Nam tăng trưởng ấn tượng liên tục trong 10 năm qua. Ảnh: LAM ANH
Kinh tế Việt Nam tăng trưởng ấn tượng liên tục trong 10 năm qua. Ảnh: LAM ANH

1. Theo Báo cáo cập nhật kinh tế Việt Nam giai đoạn 2019 - 2020, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế T.Ư (CIEM) đánh giá cao kết quả tăng trưởng kinh tế năm 2019, song cơ quan này đưa ra góc nhìn tương đối thận trọng đối với tình hình vĩ mô năm 2020. Theo đó, CIEM dự báo, tăng trưởng GDP năm 2020 ước đạt 6,72%, lạm phát bình quân khoảng 3,17%, TTXK ước đạt 7,64%, cán cân thương mại vào khoảng 2,3 tỷ USD.

Không chỉ CIEM, nhiều tổ chức quốc tế cũng đánh giá thận trọng về tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2019 - 2020. Ðơn cử, báo cáo mới nhất của Ngân hàng Thế giới (WB) nhận định, tăng trưởng của Việt Nam trong năm nay là 6,6% và giảm còn 6,5% trong năm tới do TTXK và sản xuất nông nghiệp chậm lại.

Tương tự, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đưa ra mức tăng trưởng khoảng 6,5% cho cả giai đoạn do các yếu tố kém thuận lợi của kinh tế toàn cầu. Ở góc nhìn tích cực hơn, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho rằng, Việt Nam là một trong số ít quốc gia trong khu vực châu Á có thể đạt tốc độ tăng trưởng 6,8% trong năm 2019 và 6,7% vào năm 2020. Đây là các mức tăng trưởng cao so nhiều nước trong khu vực.

Lý giải xu thế giảm tăng trưởng nói chung, ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp CIEM cho rằng, kinh tế Việt Nam đang đứng trước những khó khăn, thách thức khi cả động lực, tiềm năng và chất lượng tăng trưởng đều đang có vấn đề, trong khi sự chuẩn bị trong nước dường như chưa tương xứng với tiềm năng của các hiệp định thương mại tự do (FTA) mới.

“Thực tế, động lực cho tăng trưởng kinh tế ở ba quý đầu năm 2019 chủ yếu dựa vào XK, sản xuất công nghiệp, khai khoáng và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nhưng tới đây, XK sẽ không còn dễ dàng. TTXK vào các thị trường truyền thống như EU, Trung Quốc giảm so trước đây, chỉ XK vào Mỹ là tăng. Tuy nhiên, đây cũng là rủi ro lớn khi Mỹ đang gia tăng trừng phạt, cũng như kiểm soát với những quốc gia XK nhiều vào thị trường này, bao gồm cả Việt Nam”, ông Nguyễn Anh Dương phân tích.

Cùng quan điểm này, TS Nguyễn Ðình Cung, thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ, nguyên Viện trưởng CIEM nhìn nhận, kinh tế Việt Nam vẫn có khả năng tăng trưởng nhờ XK nhưng rất bấp bênh và tiềm ẩn nhiều nguy cơ trong bối cảnh kinh tế toàn cầu diễn biến phức tạp như hiện nay.

2. Ðánh giá các yếu tố tác động tới thị trường từ góc nhìn của nhà đầu tư, ông Dominic Scriven, Chủ tịch HĐQT Quỹ đầu tư Dragon Capital, Phó Chủ tịch HĐQT Viện Thành viên HĐQT Việt Nam (VIOD) cho rằng, đang có nhiều yếu tố bất định, khó lường trên thị trường quốc tế. Các cường quốc kinh tế đều gia tăng mạnh nợ công, chẳng hạn Nhật Bản, Mỹ có nợ công chiếm tới 70% GDP. Không chỉ nợ lớn, lãi suất cũng trong tình trạng âm. Lịch sử thế giới chưa hề ở thời kỳ lãi suất âm, nhưng hiện có tới một phần ba lượng trái phiếu chính phủ giao dịch trên thế giới ở trong tình trạng này. Bên cạnh đó, chiến tranh thương mại đang ngày càng diễn biến phức tạp, không chỉ dừng ở thương chiến Mỹ - Trung Quốc, mà còn lan sang Nhật Bản - Hàn Quốc, EU - Mỹ, hay vấn đề Brexit tại Anh… cho thấy khả năng khó tránh khỏi một cuộc suy thoái trên quy mô toàn cầu trong thời gian tới. Ðiều này đặt ra bài toán khó giải cho mọi nền kinh tế, nhất là các nền kinh tế mới nổi.

Về diễn biến bất định trên quy mô toàn cầu có thể dẫn tới xu hướng suy giảm trong dài hạn, TS Vũ Bằng, nguyên Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ cho rằng, vấn đề lớn nhất hiện nay của nền kinh tế thế giới là nợ công và căng thẳng thương mại gia tăng. Nợ công hiện đã đạt 320% GDP toàn cầu - mức rất cao so trước khi khủng hoảng năm 2009. Ðây là những yếu tố có thể tác động mạnh đến nền kinh tế và các doanh nghiệp (DN) Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế mới nổi vốn có độ mở rất lớn.

Ðánh giá sự tác động tới Việt Nam, ông Dominic Scriven cho rằng, Việt Nam ít bị ảnh hưởng bởi những yếu tố trên khi vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế ấn tượng liên tục trong 10 năm qua với một nền tảng vĩ mô ổn định, môi trường kinh doanh (MTKD), đầu tư có nhiều cải thiện. Thống kê quy mô vốn và mức lương của 50 DN niêm yết lớn nhất trên thị trường chứng khoán sau tám năm đã tăng lên gấp đôi cho thấy, khu vực kinh tế tư nhân cũng cải thiện tích cực… Tuy nhiên, thực tế đang cho thấy tăng trưởng có dấu hiệu suy giảm khi chỉ số Quản lý thu mua (PMI) đang hạ nhiệt, tốc độ tăng trưởng thu nhập của ngân sách đang hạ dần… và đặc biệt là sự lệch pha trong XK. Về triển vọng giai đoạn 2019 - 2020, tuy nền kinh tế hiện tương đối khỏe mạnh, nhưng cần nhìn rõ các thách thức phải đối mặt để đánh giá đúng các ảnh hưởng dài hạn. Các DN Việt Nam cần thận trọng, nhận diện rõ các thách thức để có sự chuẩn bị vững vàng thông qua tăng năng lực quản trị nội bộ, từ đó tăng khả năng ứng phó các cú sốc từ bên ngoài. Trong bối cảnh này, quản trị DN hiệu quả là bài toán lớn đặt ra đối với tất cả lãnh đạo DN, đòi hỏi phải có nhiều đổi mới để giúp DN sẵn sàng thích ứng, vượt qua khó khăn, thách thức của MTKD.