Tận dụng hiệu quả các lợi ích từ EVFTA

Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên hiệp châu Âu (EVFTA) còn vài ngày nữa mới thật sự bắt đầu, nhưng nỗi lo chậm đáp ứng các điều kiện để được hưởng ưu đãi đã nổi lên. Cụ thể, nếu các doanh nghiệp (DN) Việt Nam chậm đáp ứng các điều kiện về nguyên tắc xuất xứ (NTXX); vùng nguyên liệu đủ điều kiện khai thác; vệ sinh an toàn thực phẩm… thì sẽ không thỏa mãn yêu cầu để hưởng các cam kết ưu đãi về thuế quan trong EVFTA.

Khi EVFTA có hiệu lực, ngành dệt may Việt Nam gặp nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn. Ảnh: LAM ANH
Khi EVFTA có hiệu lực, ngành dệt may Việt Nam gặp nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn. Ảnh: LAM ANH

Bày tỏ sự sốt ruột trước thông tin tỷ lệ rất thấp DN Việt Nam có biết về EVFTA, chia sẻ với Đoàn giám sát của Quốc hội về việc thực hiện các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam là thành viên, Phó Chủ tịch Hiệp hội DN châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) Nguyễn Hải Minh cho biết, ngày 1-8 tới, EVFTA có hiệu lực rồi, mà chỉ có 2% số DN Việt Nam biết tương đối kỹ về Hiệp định này. Số còn lại (khoảng 20% trong tổng số 8.600 DN) có biết, nhưng có thật sự hiểu rõ về nội dung Hiệp định, về các điều kiện thực thi hay không là câu chuyện khác, dù các DN Việt Nam rất linh hoạt.

Nêu thí dụ về tính toán của một số DN dệt may trong việc lựa chọn nên hay không nên đáp ứng NTXX để hưởng các cam kết ưu đãi về thuế quan, ông  Nguyễn Hải Minh cho rằng, hiện tại, nguyên liệu nhập khẩu chính của DN dệt may Việt Nam vẫn là từ Trung Quốc, nếu không thay đổi thì không thỏa mãn được yêu cầu NTXX trong EVFTA. Một số DN tính rằng, nếu mua hàng từ nơi đáp ứng yêu cầu NTXX với mức giá cao hơn, thì kể cả khi được hưởng ưu đãi thuế quan vẫn không lợi bằng mua hàng từ Trung Quốc với mức thuế hiện tại. Nhưng DN Việt Nam cần phải hiểu rõ là, sau khi EVFTA có hiệu lực, chế độ Ưu đãi Thuế quan phổ cập (GSP) mà các DN Việt Nam đang được hưởng sẽ kết thúc, cho dù châu Âu (EU) áp dụng cho Việt Nam lộ trình bảy năm. 

Đó là chưa kể quy định về NTXX của EVFTA khá phức tạp, cả về cách diễn đạt tiêu chí và các quy định kèm theo. Sự phức tạp là lý do mà nhiều DN sản xuất khẩu trang của Việt Nam đã không đủ điều kiện xuất khẩu (XK) sang EU, cho dù đã có bạn hàng, vì không đủ các giấy chứng nhận theo yêu cầu về y tế. Ông Nguyễn Hải Minh khuyến nghị, kể cả với các điều kiện về vệ sinh an toàn thực phẩm, các DN Việt Nam khi làm việc với các đối tác EU vẫn tỏ ra lúng túng, không rõ làm thế nào, tiếp cận đầu mối nào để có đủ các điều kiện mà EU đòi hỏi. Cũng phải nói thêm, EU đang xúc tiến đàm phán FTA với một số nước trong ASEAN, sau khi đã ký hai FTA với Việt Nam và Singapore. Nghĩa là Việt Nam đang có cơ hội tận dụng không gian thị trường EU trước, nên cần đi nhanh hơn.

Thật ra, đây không phải là nỗi lo mới và không chỉ có lỗi từ DN. Ngay từ đầu năm, khi các DN EU thông báo ngừng sử dụng các bao bì bằng nhựa, thay vào đó các loại vật liệu có thể tái chế, nhiều DN Việt Nam đã chuyển đổi rất nhanh sang sử dụng bao bì từ giấy, thậm chí từ tre... Mọi việc có vẻ ổn cho đến khi DN EU yêu cầu cung cấp thông tin về vùng nguyên liệu. Hầu như các DN Việt Nam không chỉ ra được vùng nguyên liệu đủ điều kiện khai thác. Việc quy hoạch vùng nguyên liệu đối với nhiều sản phẩm XK của Việt Nam đang là thách thức, nhưng không thể chỉ là việc của DN.

Nắm rõ những thách thức khi EVFTA có hiệu lực, ông Trương Văn Cẩm, Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam cho biết, mới tháng 6 vừa rồi, khi đi làm việc với các địa phương cùng Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) để trao đổi về các cơ hội từ EVFTA, chúng tôi vẫn nhận được lời từ chối của các địa phương về đề nghị đầu tư dệt nhuộm. Chúng tôi đã tiếp tục kiến nghị Bộ Công thương hoàn tất để trình sớm Kế hoạch Phát triển ngành dệt may đến năm 2035, trong đó phải làm rõ được yêu cầu xây dựng khu công nghiệp tập trung cho dệt may, trong đó có xử lý nước thải tập trung. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể có các dự án dệt nhuộm lớn, đáp ứng được yêu cầu NTXX của EVFTA.

Có mặt trong Đoàn giám sát của QH và đây cũng không phải lần đầu được nghe về kiến nghị này, Thứ trưởng Công thương Trần Quốc Khánh cho rằng, dù ngành dệt may Việt Nam đang kỳ vọng có thể vươn lên vị trí thứ hai thế giới trong xuất khẩu dệt may sau khi EVFTA có hiệu lực. Nhưng điều này sẽ khó thành hiện thực nếu không có ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) hậu thuẫn. Thời gian qua, Bộ Công thương đã xây dựng và triển khai các chính sách phát triển CNHT cho các ngành công nghiệp. Mới đây, Bộ đã khai trương cơ sở dữ liệu về CNHT, trong đó ngành công nghiệp dệt may có 1.400 DN được đưa vào hệ thống. Bộ cũng đang tích cực hoàn thiện chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2040, sớm trình Chính phủ để làm cơ sở xây dựng các khu công nghiệp dệt nhuộm có quy mô lớn, có hệ thống xử lý nước thải đủ tiêu chuẩn để thu hút nhà đầu tư. Đây là nỗ lực không nhỏ của đơn vị quản lý với mong muốn ngành dệt may sớm tháo gỡ được điểm nghẽn thiếu nguyên phụ liệu và tận dụng tốt ưu đãi từ các FTA.

Chủ tịch VCCI Vũ Tiến Lộc khuyến nghị, đây là vấn đề các bộ, ngành cần quan tâm. Nếu không tạo điều kiện phát triển các ngành CNHT, thu hút các dự án trong ngành này, thì dệt may của Việt Nam có thể XK nhiều hơn, nhưng khó thoát khỏi “kiếp gia công”. Chúng tôi tha thiết đề nghị QH xây dựng Luật CNHT, để tận dụng được làn sóng chuyển dịch vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện tại. Một lần nữa, đòi hỏi cải cách thể chế, hoàn thiện sớm khung khổ pháp lý, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh được đặt ra rất cấp bách. Chúng tôi kỳ vọng, việc rà soát lại các khung khổ pháp luật và có điều chỉnh, cập nhật chương trình lập pháp để đáp ứng các yêu cầu trong thực hiện EVFTA không chỉ là vì tuân thủ cam kết, mà còn vì nhu cầu phát triển của nền kinh tế.