Để hiện thực hóa cơ hội từ CPTPP

Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) có hiệu lực với Việt Nam từ ngày 14-1-2019. Theo đó, doanh nghiệp (DN) Việt Nam khi xuất khẩu (XK) hàng hóa sang thị trường các nước thành viên CPTPP sẽ được hưởng cam kết cắt giảm thuế quan rất ưu đãi. Tuy nhiên, sau hơn tám tháng có hiệu lực, những cơ hội từ CPTPP vẫn chưa trở thành hiện thực đối với cộng đồng DN Việt Nam.

Sản xuất giày, dép là một trong hai ngành có thể tận dụng được ưu đãi để xuất khẩu từ CPTPP. Ảnh: NG.ANH
Sản xuất giày, dép là một trong hai ngành có thể tận dụng được ưu đãi để xuất khẩu từ CPTPP. Ảnh: NG.ANH

Tại Diễn đàn “Thuận lợi và khó khăn đối với Việt Nam khi thực hiện Hiệp định CPTPP”, Phó Vụ trưởng Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công thương) Ngô Chung Khanh cho biết, tỷ lệ tận dụng ưu đãi để XK từ CPTPP trên thực tế còn rất thấp. Đơn cử, hàng xuất theo mẫu CPTPP chỉ đạt 190 triệu USD trong tổng số 16.400 triệu USD hàng hóa XK, tương ứng với việc chỉ tận dụng được 1,17%. Hầu hết các ngành đều không tận dụng được lợi ích từ CPTPP. Hai ngành tận dụng được nhiều nhất là giày - dép và thép cũng chỉ trên dưới 10%, còn lại các ngành thủy sản, hạt điều, hồ tiêu, may mặc… chỉ tận dụng được 3 - 4%.

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã tiến hành khảo sát 8.600 DN về sự quan tâm với CPTPP. Kết quả cho thấy, 26% số DN được hỏi có tìm hiểu về CPTPP, nhưng vẫn có tới hơn 70% số DN chưa rõ về CPTPP. Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập (VCCI) Nguyễn Thị Thu Trang cho biết, cản trở lớn nhất được các DN đưa ra là 84% số DN thiếu thông tin về cam kết và cách thức thực hiện. Có đến 81,48% số DN gặp bất cập trong tổ chức thực thi quy định của cơ quan nhà nước. Tiếp theo là những vấn đề về năng lực cạnh tranh thấp hay quy tắc xuất xứ (QTXX) quá khó… “Hiệp định CPTPP đem đến cho Việt Nam nhiều cơ hội lớn nhưng tôi luôn phấp phỏng lo lắng không biết có thành hiện thực hay không. Chúng ta luôn nói CPTPP là đợt cải cách thể chế lớn nhất sau WTO nhưng sau tám tháng, tôi chưa nhìn thấy nhiều cải cách để thúc đẩy việc thực hiện nội dung CPTPP”, bà Trang bày tỏ.

Theo ông Ngô Chung Khanh, kể từ khi CPTPP có hiệu lực, số lượng câu hỏi, sự quan tâm của DN mới chỉ dừng ở 12 câu hỏi gửi tới Bộ Công thương, còn quá khiêm tốn so số lượng cộng đồng DN Việt Nam. Với các cơ quan quản lý nhà nước (CQQLNN), sự chủ động cũng chưa cao, các kế hoạch hành động của các bộ, ngành, địa phương đều chậm nửa năm so yêu cầu. Các đầu mối thông tin, phổ biến tuyên truyền về CPTPP cho cán bộ nhà nước, DN cũng chậm. Hành trình cải thiện năng lực cạnh tranh của DN còn nhiều chông gai do chính sách thuế, thủ tục hải quan còn nhiều bất cập.

Về phía DN, Tổng Giám đốc Tập đoàn Dệt - may Lê Tiến Trường (Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt - may Việt Nam- VITAS) cho hay, lâu nay khi phổ biến thông tin về CPTPP, chúng ta luôn nói ngành dệt - may phải chấp nhận QTXX cao là từ sợi mới được hưởng ưu đãi thuế quan. Chúng ta chấp nhận QTXX từ sợi trở đi là quy tắc rất cao, cao nhất trong chuỗi cung ứng dệt - may. Đơn cử, Công ty CP Thành Công sở hữu chuỗi cung ứng đầy đủ, chỉ mua bông của Mỹ và các nước Tây Phi, khi làm với Cục Xuất nhập khẩu để xin cấp giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) thì được trả lời là chỉ cấp C/O từ bông chứ không thể từ sợi. Trong khi đó, sản phẩm dệt - may chỉ cần đáp ứng QTXX từ sợi là được hưởng ưu đãi thuế quan khi xuất sang thị trường CPTPP. Có thể ở một góc độ nào đó, lời văn trong Hiệp định CPTPP chưa tường minh, tuy nhiên khi chưa tường minh thì chúng ta cũng nên xử lý theo hướng bảo vệ quyền lợi tốt nhất cho DN. Thực tế, lời văn về QTXX của ngành dệt - may trong CPTPP không mới so nội dung tại các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà trước đây Mỹ áp dụng với các quốc gia khác.

Ông Nguyễn Tiến Trường cho rằng, với CQQLNN, đây chỉ là chuyện cấp C/O hay không cấp C/O. Nhưng đối với DN lại là vấn đề quan trọng. Nếu giải thích chỉ cấp C/O từ bông thì trong khối CPTPP không ai có bông, ngoài Australia có bông dài cao cấp nhưng Việt Nam phải nhập khẩu giá cao. Nếu tiếp cận như thế, toàn bộ hệ thống hàng hóa dệt - may, kể cả sau này có đầu tư làm vải cũng không được hưởng ưu đãi.

Trước thực tế trên, ông Trường kiến nghị, cơ quan chức năng về lâu dài nên tính đến phương án cho phép DN tự chứng nhận xuất xứ (CNXX). Nếu CQQLNN muốn an tâm thì có thể tổ chức các lớp tập huấn, sau đó cấp giấy phép cho các DN có nhân lực đủ điều kiện để tự CNXX. Như vậy vừa giảm tải được công việc của CQQLNN, mà DN lại có nhiều cơ hội để kinh doanh.

Đồng tình quan điểm này, TS Võ Trí Thành, nguyên Phó Viện trưởng Nghiên cứu quản lý kinh tế T.Ư (CIEM) cho rằng, các DN nên đi học để tự CNXX, tránh tình trạng như trong Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN cho phép DN tự CNXX nhưng số DN làm được chỉ… đếm “trên đầu ngón tay”. Đã đến lúc DN phải có sự thay đổi, hiểu thấu đáo để tự tin tham gia cuộc chơi của các FTA với các nước, các thị trường lớn. DN cần tìm cơ hội kinh doanh, thông tin từ thị trường. Ngoài ra, DN cũng cần đồng hành với Chính phủ để phản ánh những bất cập, vướng mắc trong quá trình thực hiện các thủ tục hành chính. Nếu Hiệp định ký xong mà để đấy thì tất cả lợi ích vẫn chỉ nằm trên giấy. Do đó, cần nâng cao hơn nữa sự chủ động của cả bộ máy quản lý, các địa phương và chính DN.

Ông Ngô Chung Khanh cũng cho rằng, đã đến lúc cần sự vào cuộc chủ động, quyết liệt hơn của các DN, bộ, ngành và địa phương để thúc đẩy thực thi nghiêm túc CPTPP. Không thể chỉ làm với tính chất đối phó như thời gian qua.