Định hướng thu hút dòng FDI thế hệ mới

Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết (NQ) số 50/NQ/ TW về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030, với kỳ vọng sẽ đẩy mạnh liên kết giữa khối trong nước và khối nước ngoài khi luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thế hệ mới vào Việt Nam. Đây là một NQ có tầm quan trọng, đặc biệt đối với tiến trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN trong thời kỳ mới.

Thu hút FDI trong thời gian tới cần bảo đảm kết nối giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước. Ảnh: ANH LAM
Thu hút FDI trong thời gian tới cần bảo đảm kết nối giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước. Ảnh: ANH LAM

Sau hơn 30 năm thực hiện thu hút đầu tư nước ngoài, vốn FDI đến nay đạt gần 350 tỷ USD, bình quân tăng hơn 20%/ năm, đồng thời là khu vực tăng trưởng cao nhất trong nền kinh tế. Tuy nhiên, việc thu hút, quản lý và hoạt động đầu tư nước ngoài vẫn còn những hạn chế, vướng mắc và phát sinh những vấn đề mới mà đã đến lúc cần điều chỉnh và rà soát lại cho phù hợp.

Theo Thứ trưởng Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) Vũ Đại Thắng, ngay từ những ngày đầu mở cửa, Đảng và Nhà nước có chủ trương mời gọi dòng vốn đầu tư nước ngoài để tận dụng lợi thế về công nghệ, thị trường… Vốn FDI đóng vai trò quan trọng trong hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực cũng có hạn chế nhất định trong thu hút FDI, đặc biệt sau 30 năm, thế và lực của Việt Nam có nhiều thay đổi. Việt Nam có nhiều cơ hội lựa chọn, đây là thời điểm ưu tiên lựa chọn doanh nghiệp (DN) và dự án (DA) phù hợp trình độ phát triển của Việt Nam. Chính vì vậy, NQ đưa ra định hướng, chủ trương về thu hút FDI nhằm phát huy hết lợi thế và hạn chế rủi ro của nguồn vốn này. Đặc biệt, NQ đã dùng chữ hợp tác để thể hiện sự bình đẳng, chủ động khi làm việc với khối DN FDI, đề ra trách nhiệm của DN FDI với Việt Nam. Trong NQ cũng nêu rõ thu hút FDI trong thời gian tới cần bảo đảm kết nối liên thông giữa FDI với DN trong nước là yêu cầu bắt buộc.

Đánh giá cao việc đưa vào NQ cụm từ hợp tác, đầu tư chứ không phải mời gọi đầu tư như trước đây, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Vũ Tiến Lộc cho rằng, chủ trương này sẽ mở ra làn sóng đầu tư mới, thế hệ FDI mới vào Việt Nam. Thực tế, Việt Nam đã trở thành quốc gia thu hút FDI thành công trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, hiệu quả dòng vốn FDI chưa tương xứng số lượng vốn đầu tư. Chúng ta trông cậy không chỉ huy động vốn mà có lan tỏa công nghệ, liên kết với DN trong nước nhưng kết quả thực tế không được bao nhiêu. Theo khảo sát của VCCI, chỉ 14% số DN trong nước Việt Nam cho biết có quan hệ mua bán với DN FDI; khoảng 27% nguyên liệu, hàng hóa đầu vào của khối FDI được mua tại Việt Nam, trong đó một tỷ lệ đáng kể lại là mua từ chính các DN FDI khác, khối FDI đang giống như một “ốc đảo” trên lãnh thổ Việt Nam. Nếu không gắn kết, FDI sẽ không bén rễ sâu vào nền kinh tế Việt Nam, bất cứ thay đổi nào, khối nước ngoài cũng có thể chuyển sang nơi khác.

Dưới góc độ địa phương, Bí thư Thành ủy, Chủ tịch HĐND TP Hải Phòng Lê Văn Thành đánh giá, trong NQ, đặc biệt chú ý là yêu cầu chuyển giao công nghệ, đặc biệt là liên kết sản xuất giữa DN Việt Nam và DN FDI. Thời gian qua, chúng ta kỳ vọng tỷ lệ nội địa hóa hàng hóa được nâng lên nhưng thực tế còn thấp.

Thực tế, FDI là một trong những động lực tăng trưởng quan trọng, kết nối nền kinh tế Việt Nam với chuỗi giá trị toàn cầu, nhưng Chủ tịch VCCI Vũ Tiến Lộc đánh giá, những kỳ vọng trên chưa đạt được mong muốn là do thể chế, chính sách, cũng như tùy thuộc chính năng lực của DN Việt Nam, đó là khả năng hấp thụ công nghệ của DN Việt chưa cao, trình độ nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu. Thời gian tới, Việt Nam khuyến khích thu hút FDI công nghệ cao nhưng có tới 85% số DN FDI không thể tuyển chọn được lao động trình độ cao. Nhiều DN FDI muốn hợp tác, liên kết với khối DN trong nước cũng không được vì DN Việt Nam không đáp ứng được yêu cầu. Chính sách ưu đãi cho nhà đầu tư nước ngoài cần tính lại theo phương án “hậu ưu đãi”, tức là chỉ khi tạo ra được giá trị gia tăng thì mới nên có chính sách ưu đãi, ưu đãi dựa trên kết quả, hiệu quả mà dự án đó đem lại cho nền kinh tế.

Cùng quan điểm này, Thứ trưởng KH&ĐT Vũ Đại Thắng cho rằng, ngoài việc khuyến khích chuyển giao công nghệ, khuyến khích DN FDI mua hàng của DN trong nước, cũng cần hỗ trợ DN trong nước lớn lên. Làm sao để DN Việt Nam có thể tham gia chuỗi giá trị của DN FDI. Thời gian tới, khi xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ DN Việt Nam cần phải chú ý điều này. NQ đã chỉ ra giải pháp khuyến khích để DN FDI sử dụng dịch vụ của DN trong nước, đồng thời có chính sách hỗ trợ DN nội địa để nâng tầm sản phẩm, đáp ứng chuỗi giá trị của DN FDI. Đó là giải pháp vừa kéo vừa đẩy. Đặc biệt, về vấn đề ưu đãi, 30 năm thu hút FDI, cơ chế ưu đãi đầu tư cho các DN nói chung thật sự “có những cái hơi lạc hậu, tập trung theo chiều rộng, chứ không theo chiều sâu”. Thời gian tới, cần thay đổi cách tiếp cận, chỉ ưu đãi phần giá trị gia tăng làm trên đất nước Việt Nam, phần kết nối với DN trong nước… Chúng ta cần hỗ trợ thúc đẩy DN trong nước bắt kịp trình độ của thế giới, hướng tới thay thế được vai trò của DN FDI đối với nền kinh tế Việt Nam, trên tinh thần ngoại lực là quan trọng nhưng nội lực là yếu tố quyết định. Tuyệt đối tránh quan điểm sợ DN FDI phát triển mạnh quá phải kéo họ xuống, mà phải tạo điều kiện cho DN nước ngoài phát triển.