NDĐT – Hương sắc tân niên của xuân Mậu Tuất đã gõ cửa. Những “báu vật” của nghệ thuật dân gian hiếm hoi còn lại bước thêm một tuổi mới. Người chớm 70, người đã bước qua ngưỡng 80. Nhưng với họ, xuân này, đôi chân chưa mỏi, giọng hát vẫn còn sang sảng.
Chở tải nghệ thuật dân gian có thể là thách thức với lớp trẻ hiện tại. Nhưng với người xưa cũ, vốn không màng tới cuộc sống biến thiên ngoài kia, vẫn hát tựa như hơi thở cuộc sống, như một nơi gửi gắm tâm hồn mình. Một đời trọn vẹn với nghệ thuật dân gian, cũng là một đời tâm sức cống hiến truyền dạy lại cho thế hệ trẻ.
Họ - những lớp nghệ nhân cũ đã trao truyền cho rất nhiều lứa học viên bằng một tâm nguyện rất hồn nhiên “Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình!”.
Ở tuổi 81, gia sản lớn nhất của nghệ nhân Trần Khánh Cẩm chính là bộ sưu tập công phu và đồ sộ về nghệ thuật dân ca ví, dặm.
Từng không được mẹ là một đào nương có tiếng của Nghệ Tĩnh đồng ý cho theo nghiệp cầm ca, nhưng từ năm 10 tuổi, Trần Khánh Cẩm đã khiến người nghe phải kinh ngạc vì giọng hát của ông.
17 tuổi, ông được Ty Văn hóa Hà Tĩnh đưa về tham gia Đội tuyên truyền văn hóa lưu động tỉnh. Nghiệp ca hát vì thế mà từ đó vận vào ông, để rồi khi người mẹ yêu thương mất đi, ông quyết tâm phải làm được gì đó cho đời.
Quẳng hết mọi gánh lo cuộc sống bộn bề, ông lao vào sáng tác, mà phần lớn là những sáng tác liên quan đến ví, giặm.
Nghệ nhân Trần Khánh Cẩm sinh năm 1937 tại xã Kỳ Bắc, huyện Kỳ Anh (tỉnh Hà Tĩnh).
Năm 2011, nghệ nhân Trần Khánh Cẩm được T.Ư Đoàn TNCS HCM tặng Kỷ niệm chương “Vì thế hệ trẻ” về thành tích đóng góp vào sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ và xây dựng tổ chức Đoàn.
Ngày 09-01-2016, nghệ nhân Trần Khánh Cẩm được Nhà nước tặng danh hiệu Nghệ nhân Ưu tú dân ca ví giặm Nghệ Tĩnh.
Năm 2010, nghệ nhân Trần Khánh Cẩm thành lập CLB dân ca Kỳ Anh do mình làm chủ nhiệm và sinh hoạt tại chính căn nhà của ông với vẻn vẹn sáu thành viên. Đến nay, câu lạc bộ của cụ năm nay đã có thêm được con số 20 hội viên với người cao tuổi nhất năm nay đã 84.
Cất công bảo tồn và gìn giữ vốn ví dặm cổ, nghệ nhân Trần Khánh Cẩm có trong tay vốn ví, dặm rất bài bản, dầy dặn và tương đối đầy đủ. Dù gia cảnh thuộc diện nghèo ở làng, nhưng điều đó chẳng ngăn nổi bước chân của một người con, vốn sinh ra, lớn lên và đặt mục tiêu lớn lao là phải sống và gìn giữ ví, dặm.
Con cháu trong nhà, hàng xóm chung quanh gàn ông, già rồi còn đạp xe đi sưu tầm làm gì nữa. Vốn liếng sưu tầm của ông, đã đủ là một khối di sản khổng lồ về dân ca ví, dặm. Nhưng gạt bỏ ngoài tai, ông vẫn đi, đạp xe cách nhà 30-40 km, thậm chí đi cả tuần mới về, khi nào sưu tập được đủ, ngấm đủ những câu hát cổ thì cụ mới yên tâm về nhà. Gần 60 năm qua, ông chưa ngừng nghỉ trong hành trình tìm kiếm vốn dân ca ví, dặm cổ để lưu giữ, bảo tồn cho con, cháu.
Cả cuộc đời rong ruổi bằng xe đạp, ông đã sưu tầm được hàng trăm câu hát cổ và dựng được nhiều hoạt cảnh, vở diễn dân ca ví dặm từ những làn điệu đã sưu tầm. Trong việc gìn giữ nghệ thuật ví, dặm, nghệ nhân Trần Khánh Cẩm là người có công lớn trong việc làm sống lại điệu hát sắc bùa và các làn điệu khác như hát ru, hát ví o Nhẫn, hát ví Xay lúa.
Ông Cẩm hóm hỉnh bảo “Năm nay 81 tuổi rồi, nhưng trời cho còn sức khỏe nên còn đi, còn đạp xe đi sưu tầm dân ca ví, dặm. Nhà nghèo thật đấy, nhưng vẫn say sưa. Còn sức là còn cống hiến nên cứ vui vẻ mà làm cháu ạ”.
Hạnh phúc của những nghệ nhân, chính là được truyền nghề. Vì thế, năm 2018, ước mong của ông là còn sức khỏe để tiếp tục truyền dạy cho lớp trẻ. Năm nay, ông có một chương trình rất dài hơi, đi nói chuyện về dân ca ví, dặm; đi tập luyện các làn điệu dân ca cho các em nhỏ từ tiểu học đến trung học phổ thông trong tỉnh.
Tại câu lạc bộ, trong năm 2018 này, ông hướng tới nhiều hơn các hoạt động đào tạo lớp trẻ kế cận với các cháu bé chỉ khoảng 8-10 tuổi. Dù công việc này cực kỳ gian nan vì lớp trẻ không còn hào hứng, tập vài bữa nửa tháng rồi bận rộn học hành mà bỏ, nhưng những lứa nghệ nhân cao niên như các ông, không thể vì nản chí mà bỏ dở công cuộc đào tạo lớp trẻ.
Nếu như hát xoan có đời sống trong cộng đồng rất tốt thì nghệ nhân Trần Khánh Cẩm lại rất lo lắng khi dân ca ví, dặm lại khá chật vật để len lỏi vào trong đời sống người dân Hà Tĩnh.
Nhìn xa xăm, ông trầm giọng bảo “dân quê Kỳ Anh, Hà Tĩnh thì nghèo quanh năm. Người dân kiếm ăn còn khó, động viên họ gìn giữ làn điệu ví, dặm còn khó hơn vì không có kinh phí cho mọi người tham gia sinh hoạt”. Ông cũng kèm một nỗi lo lắng khôn nguôi, những làn điệu mà cụ cất công đi sưu tầm, gìn giữ và truyền bá không được trả một chút tiền bản quyền, trong khi nhiều nơi vô tư sử dụng tác phẩm mà cụ sưu tầm để trình diễn. “Đáng lý người sưu tầm phải được trả bản quyền, phải được động viên khích lệ mới đúng” - ông băn khoăn.
Những ngày cuối đông, trời bừng nắng ấm áp. Nghệ nhân Trần Khánh Cẩm ngồi giữa nhà văn hóa huyện Kỳ Anh, đang chỉ đạo cho các nghệ nhân tập câu hò, điệu ví cho chương trình mừng Đảng, mừng xuân 2018 tại quê hương Kỳ Anh. Cuối năm, nghệ nhân Cẩm cũng không có thời gian rảnh rang để đi sưu tầm các câu hò, điệu ví vì đang bận giúp các xã lân cận tập luyện ca hát cho chương trình nghệ thuật xây dựng nông thôn mới.
Thêm một tuổi mới, nghệ nhân U90 Trần Khánh Cẩm vẫn còn rất sung sức. Ông còn thêm hạnh phúc khi vừa được UBND tỉnh Hà Tĩnh bầu làm nghệ nhân nhân dân và đang trình hồ sơ lên Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Khởi phát từ hai hình thức dân ca Nghệ Tĩnh là hát ví và hát dặm, ví, dặm được sử dụng phổ biến trong hầu hết mọi sinh hoạt thường ngày, từ ru con, dệt vải đến trồng lúa, chèo thuyền… Dân ca ví, dặm Nghệ Tĩnh giữ vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh (gọi tắt là Nghệ Tĩnh).
Theo kết quả kiểm kê của Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam (năm 2013), hiện có 75 nhóm dân ca ví, dặm với khoảng 1.500 thành viên tham gia, trong đó có 803 nghệ nhân tại 260 làng (168 làng ở Nghệ An và 92 làng ở Hà Tĩnh).
Với những giá trị độc đáo và nổi bật, ngày 27-11-2014, tại kỳ họp thứ 9 của Ủy ban Liên chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (UNESCO) tổ chức tại Paris (Pháp), Dân ca ví, dặm Nghệ Tĩnh đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Sống bằng nghệ thuật đã nuôi dưỡng tâm hồn từ thuở ấu thơ, những nghệ nhân đã ở tuổi thất thập, vẫn ngày ngày say mê ca hát, say mê giảng dạy, say mê nói về nghiệp ca... Có lẽ, với họ, chính những lời ca, tiếng hát ấy đã giúp họ bước qua những chặng đường dài gian nan của cuộc đời mà vẫn đầy lạc quan.
Bước sang tuổi 68, bà trùm phường xoan cổ duy nhất trên đất Phú Thọ Nguyễn Thị Lịch dường như ngày càng khỏe mạnh và sung sức hơn trong việc truyền dạy cho lớp trẻ. Tại sân đình An Thái, ngày nào cũng có tiếng hát, từ những chất giọng đã run rẩy cho tới những giọng ca trong vắt của lứa tuổi trẻ thơ.
Lớn lên và “ngấm” những điệu hát xoan từ thuở nhỏ trong gia đình truyền thống có năm đời hát xoan, bà Lịch có lẽ gìn giữ được nghệ thuật cổ truyền này một cách tinh túy nhất là nhờ cha đẻ của bà là cụ Nguyễn Tất Thắng - người có công lớn trong việc khôi phục lại nghiệp hát xoan thời kỳ sau chiến tranh.
Nghệ nhân Nguyễn Thị Lịch sinh năm 1950.
Năm 2005, nghệ nhân Nguyễn Thị Lịch được Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian.
Năm 2011, nghệ nhân Nguyễn Thị Lịch được Viện Âm nhạc tặng Giấy khen vì có thành tích trong công tác bổ sung xây dựng hồ sơ hát xoan Phú Thọ.
Năm 2012, nghệ nhân Nguyễn Thị Lịch được UBND tỉnh Phú Thọ tặng Bằng khen và phong tặng danh hiệu.
Năm 2015, nghệ nhân Nguyễn Thị Lịch được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ nhân ưu tú.
Năm 13 tuổi, bà đã là một đào nương có tiếng, gần như thuộc hết 14 quả cách (hay còn gọi là làn điệu). Tất cả những hồ sơ tài liệu về hát xoan mà cha bà khôi phục, được bà gìn giữ như báu vật.
Hát xoan đã từng có một thời bị đứt đoạn vì chiến tranh và nạn đói triền miên. Các gánh hát giải thể, các trùm xoan vì phiêu dạt mà quên nghề. Từ chính việc phục dựng lại phường hát xoan mà cha bà là nghệ nhân Nguyễn Tất Thắng để lại, bà Lịch tâm nguyện, sẽ phải là người tiếp nối đầy tự hào của dòng tộc. Bà tiếp quản phường xoan An Thái từ năm 1997 khi người cha qua đời.
Từ năm 1997 đến nay, bà Lịch đã chèo lái phường xoan An Thái vượt qua ngững thách thức của sự mai một, của sự thất truyền để bảo tồn và phát triển nghệ thuật hát xoan, khẳng định thương hiệu là phường xoan nức tiếng của đất Tổ.
Khi hát xoan mới chỉ là một nghệ thuật của đất Tổ cho đến khi trở thành di sản văn hóa phi vật cần phải bảo vệ khẩn cấp, nghệ nhân Nguyễn Thị Lịch cùng các nghệ nhân Phú Thọ dày công truyền bá, đào tạo các đào kép mới. Không quản ngại xa xôi, quản ngại sức khỏe, các nghệ nhân đã làm được việc kỳ diệu, cùng với UBND tỉnh Phú Thọ mang hát xoan vào trường học. Lời ca, tiếng hát vì thế mà trở nên có sức sống kỳ diệu trong đời sống người dân nơi đây. Vì thế mà, năm 2017, hát xoan đã tiếp tục lập kỳ tích ra khỏi danh sách cần phải bảo vệ khẩn cấp và được UNESCO ghi nhận là văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Bà bảo, điều bà hạnh phúc nhất, là đến giờ, hát xoan đã có được sự truyền dạy một cách bài bản, và hát xoan đã có không gian để sống một cách sống động trong cộng đồng. Ở độ tuổi 70, giọng hát của bà vẫn còn trong và rất vang.
Với một nhiệt huyết không ngại đi, không giấu nghề, ngoài nhiều lớp học viên chân truyền, bà đã dạy cho rất nhiều thế hệ các em nhỏ, trong đó, có rất nhiều con cái, cháu nội – ngoại của bà.
Phường hát xoan An Thái với bà chủ phường Nguyễn Thị Lịch đã “thu nạp” được 107 thành viên với năm thế hệ hát xoan tiếp nối. Người nhỏ nhất là sáu tuổi, già nhất là 94 tuổi. Có khoảng 5-6 nghệ nhân được trưởng thành từ phường hát xoan An Thái và đang tiếp tục nhân rộng công việc truyền dạy cho nhiều câu lạc bộ khác. Phường xoan An Thái cũng đã có ba lứa nghệ nhân nối tiếp nhau, để gìn giữ hát xoan, gìn giữ nghệ thuật dân gian đất Tổ cho muôn đời sau.
Đào Lịch bảo, giờ đây, trong niềm hạnh phúc của nghệ thuật đại diện nhân loại, các nghệ nhân đã không còn lo hát xoan bị thất truyền nữa. Niềm vui ấy, khiến bà dù đã bước sang tuổi 70, vẫn đầy nhiệt huyết đi khắp các tỉnh, thành để truyền dạy hát xoan.
“Ngoài việc đi dạy cho chủ nhiệm các câu lạc bộ hát xoan trong tỉnh, tôi cũng vẫn đủ sức khỏe để đi Yên Bái, Thái Nguyên để dạy cho các em nhỏ và thật may mắn tôi vẫn còn rất sung sức để đi trình diễn thực hành hát xoan tại các địa phương xa như Nam Định, Hà Nội, Yên Bái… thậm chí vào cả TP Hồ Chí Minh” – Bà Lịch tự hào nói.
Hơn 60 năm thẩm thấu vào máu thịt những câu hát xoan, bà Lịch không giấu được nỗi khao khát ẩn sâu trong ánh mắt, rằng, mong muốn hát xoan có sức lan tỏa hơn nữa, mong còn đủ sức khỏe để truyền dạy hát xoan cho cả ba miền bắc – trung – nam. “Có nhiều người từ TP Hồ Chí Minh ra gặp tôi để xin học hát xoan, còn lập phường hát xoan mời tôi vào trong đó truyền dạy. Những nghệ nhân chúng tôi rất hy vọng hát xoan sẽ vươn xa ra khỏi Phú Thọ” – bà Lịch bảo.
Hát xoan là một loại hình nghệ thuật truyền khẩu đặc sắc, còn có tên gọi khác là Hát lãi lèn, Hát đúm, Hát thờ, Hát cửa đình, bắt nguồn từ hình thức hát thờ các Vua Hùng ở nước ta. Đến nay, Hát xoan đã trở thành một trong những nét sinh hoạt văn hóa độc đáo ở tỉnh Phú Thọ.
Hiện tại, trên địa bàn Phú Thọ còn bảo tồn được 31 bài xoan và bốn phường xoan (An Thái, Thét, Phù Đức và Kim Đái), đều thuộc thành phố Việt Trì.
Với những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học đặc sắc của loại hình nghệ thuật độc đáo này, ngày 24-11-2011, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức công nhận Hát xoan Phú Thọ là di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại.
Ngày 8-12-2017, di sản Hát xoan Phú Thọ đã chính thức rút khỏi danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp và ghi danh tại danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Quan họ lan đi rộng rãi, theo sách vở, thì đã có cả một truyền thống chơi quan họ. Trong đó, người xưa truyền dạy, ca hát, rèn luyện, kết chạ, để câu ca cứ nối từ thế hệ này sang thế hệ khác. Truyền thống hàng trăm năm chảy vào con người hiện đại, để sự truyền dạy tiếp tục được duy trì, ở những hình thức mới.
Đất Bắc Ninh có nhiều con người do nhu cầu xã hội, nhu cầu tự thân mà đứng ra nhận lãnh cái trách nhiệm quý báu ấy. Ngay trong một họ tộc lớn hát quan họ ở làng quan họ gốc Ngang Nội, xã Hiên Vân, huyện Tiên Du, qua mấy chục năm “đời sống mới”, đã có những người góp sức cần mẫn, được đông đảo người trong cộng đồng ghi nhận.
Một “công dân tiêu biểu” của làng mà ai ai cũng nhớ đến - cố nghệ nhân Nguyễn Đức Sôi, vẫn thường được kính cẩn ghi ơn là người thầy đầu tiên của các nghệ sĩ Nhà hát quan họ Bắc Ninh. Năm 1969, đoàn quan họ được thành lập, nghệ nhân nổi tiếng thông thuộc quan họ, chèo của làng Ngang, tài hoa trong tiếp thu vốn liếng cổ truyền để tạo ra những bài quan họ “mới mà như cũ”, được mời lên thị xã Bắc Ninh – nay là thành phố, dạy cho lứa diễn viên trẻ.
Con gái của cụ Sôi, NSƯT Lệ Ngải, là học trò của bố từ trong nhà, lên đến đoàn dân ca và tiếp mãi nhiều năm sau này, học từ những bài bản cụ thể, cho đến cái tinh thần truyền nối câu hát cho những lớp người kế cận. Bởi thế mà hôm nay kể đến những ai đã từng học hát từ NSƯT – cô giáo Lệ Ngải, thì chỉ áng áng các lớp của hai trường trung cấp nghệ thuật Bắc Ninh, Bắc Giang suốt mấy chục năm qua mà chưa kể đến “người trong thiên hạ” thì đã thấy là quá nhiều rồi! Cho nên một lần cô giáo Ngải làm đám cưới cho con gái, thì học trò đến dự đã đủ làm thành một chương trình văn nghệ ngẫu hứng toàn các trai thanh gái lịch rồi!
Có những dịp tâm sự, bà kể chuyện đi dạy bền bỉ bao năm nay, theo lời mời của nhà trường, gần thì ở Bắc Ninh, trường cách nhà một cây số, xa hơn thì lên thành phố Bắc Giang. Bây giờ có xe buýt tiện lợi, còn ngày trước thì đi xe máy, còn cái thời mà rất ít người có xe máy thì hầu như ai cũng như ai, đi xe đạp còng cọc suốt đường dài. Dạy học sinh các bài bản quan họ cổ, và lại là con người lớn lên từ trong truyền thống sinh hoạt ca hát quan họ ở một làng quan họ cổ, đặc biệt lại thêm những năm làm diễn viên, trực tiếp đến nhà học nhiều nghệ nhân các làng quan họ cổ khác nữa, cô giáo Lệ Ngải có nhiều điều để trao đổi với các em.
Một bài ca có ca từ, lời thơ, giai điệu, có ngắt nhịp, cách nhả chữ, cách ngân, luyến… sao cho ra chất, ra cái ý tình ẩn chứa của người xưa sáng tạo ra, của người hát hôm nay. Nhưng chung quanh bài ca ấy, còn bao nhiêu dáng nét văn hóa quan họ, còn có dòng chảy nuôi dưỡng của tập quán truyền thống và những câu chuyện thú vị về các nghệ nhân, những người nuôi giữ câu ca hào hứng như chính tâm hồn mình. Cô giáo Lệ Ngải “dạy” thêm về những điều ấy cho học trò của mình.
Trong đó, chưa nói đâu xa, cô kể về cụ Sôi bố mình, người đã sáng tác ra hàng chục bài ca để phát triển thêm cho quan họ những bài đối, những bài hát mới mà đến nay, chúng đã đi vào đời sống ca hát quan họ như những bài ca dân gian khác, nghĩa là không mấy người biết đến tên tác giả. Riêng đề tài này, có lẽ có thể thành một công trình nghiên cứu thú vị về sự sáng tạo và tiếp nối mạch chảy quan họ truyền thống trong khoảng mấy chục năm giữa và gần cuối thế kỷ 20. Bởi ngoài cụ Sôi, còn có không ít cụ nghệ nhân khác cũng đã sáng tác nên những bài quan họ hay, được yêu thích mà sau này… không mang tên mình.
Nhiều nghệ sĩ đã có tuổi và đã thành danh trên sân khấu ca hát quan họ chuyên nghiệp hôm nay, từng là học trò cô Lệ Ngải, và cả những nghệ sĩ trẻ của nhà hát quan họ nữa. Bây giờ không làm học trò trên ghế nhà trường nữa, thì vẫn là học trò trong đời, bởi còn có những điều lứa nghệ sĩ trẻ muốn hỏi đến cô Ngải. Chả thế mà có lần xây dựng tiết mục đi dự liên hoan, nhà hát mời NSƯT Lệ Ngải – diễn viên đã nghỉ công tác ở nhà hát rất lâu, tham gia, thể hiện hình ảnh một bà cụ đáng kính, giảng giải cho các cháu thanh niên vẻ đẹp, nét hay của câu ca và văn hóa quan họ. Cái hình ảnh tuy ngắn gọn ấy, nhưng dường như lại nhấn đúng vào một nét đặc biệt trong cuộc đời nghệ thuật của NSƯT Lệ Ngải, là người giúp cho bao lớp người khác thấy quan họ đẹp đẽ, cuốn hút thế nào.
Tất nhiên, bây giờ NSƯT, cô giáo Lệ Ngải vẫn chưa thể trở thành một… cụ già, và sẽ còn lâu nữa. Bởi dù đã xa cái mốc sáu chục từ lâu, đã phải bận bế cháu, nhưng bà Ngải vẫn đi thẳng lưng, vẫn nhanh nhẹn, tháo vát những việc cửa nhà. Và nhất là, giọng hát của bà vẫn khỏe khoắn, vang rền trong những lớp học, trong gia đình những lần có khách thân thiết đến chơi, trong những ngày hội làng Ngang Nội mà bạn bè xa về ăn cỗ cứ muốn ngồi chơi nghe mãi, không muốn về.